Việt Nam có nguy cơ mất chi phí cao cho chăm sóc sức khỏe do ô nhiễm từ sản xuất điện

13:00 | 10/11/2019

223 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Theo Báo cáo Triển vọng Năng lượng Việt Nam 2019 (EOR19), phát thải từ việc sử dụng than trong ngành điện làm tăng chi phí y tế cho xã hội. Vào năm 2030, chi phí y tế do ô nhiễm từ sản xuất điện ở Việt Nam ước tính khoảng 7-9 tỷ USD.        
viet nam co nguy co mat chi phi cao cho cham soc suc khoe do o nhiem tu san xuat dienSong hành sản xuất điện và bảo vệ môi trường
viet nam co nguy co mat chi phi cao cho cham soc suc khoe do o nhiem tu san xuat dienTối ưu nguyên liệu dầu sản xuất điện
viet nam co nguy co mat chi phi cao cho cham soc suc khoe do o nhiem tu san xuat dienBiến khí thải CO2 thành năng lượng hữu ích

EOR19 cũng cho rằng, giả thiết mức làm sạch khí thải không tăng, thì chi phí ô nhiễm không khí từ ngành điện ước tính là 23 tỷ USD/năm, tương đương với hơn 2% GDP vào năm 2050. Chi phí này sẽ giảm xuống còn 7 tỷ USD nếu các biện pháp tiết kiệm năng lượng, sử dụng năng lượng tái tạo và khí tự nhiên hóa lỏng được thực thi.

Mặc dù là nước xuất khẩu năng lượng trong một thời gian dài, Việt Nam đã trở thành nước nhập khẩu năng lượng từ năm 2015.

viet nam co nguy co mat chi phi cao cho cham soc suc khoe do o nhiem tu san xuat dien
Việt Nam có nguy cơ mất chi phí cao cho chăm sóc sức khỏe do ô nhiễm từ sản xuất điện

Vào năm 2030, tất cả các kịch bản đều thể hiện sự tăng mạnh nhập khẩu than và dầu. Sự phụ thuộc vào nhập khẩu nhiên liệu trong tương lai có thể giảm từ 60% xuống 51% vào năm 2030 và từ 71% xuống 58% vào năm 2050, nếu đồng thời phát triển năng lượng tái tạo, sử dụng khí tự nhiên (LNG) và các biện pháp tiết kiệm năng lượng nhằm thay thế hầu hết các nhà máy nhiệt điện than.

Chi phí nhập khẩu nhiên liệu có thể giảm được nhờ các biện pháp tiết kiệm năng lượng, trong khi việc hạn chế nhiệt điện than tự nó không làm giảm chi phí nhập khẩu nhiên liệu vì nhiên liệu than được thay thế bằng khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) đắt đỏ.

Việc gia tăng hoạt động vận tải đường bộ sẽ làm tiếp tục xu hướng tăng tiêu thụ dầu trong quá khứ, làm cho dầu trở thành nhiên liệu hóa thạch nhập khẩu chính trong dài hạn. Dựa vào số liệu hoạt động giao thông vận tải của Bộ Giao thông Vận tải, báo cáo EOR19 chỉ ra rằng việc chuyển đổi các phương tiện vận chuyển, kể cả vận chuyển hàng hóa và hành khách, sang loại mới và có hiệu suất năng lượng cao có thể giúp giảm 25% lượng dầu nhập khẩu vào năm 2050

Quy hoạch năng lượng dài hạn chỉ ra con đường giảm mạnh phát thải CO2 trong tương lai, Báo cáo EOR19 nêu và khẳng định, tiền thu được từ việc thực hiện tiết kiệm năng lượng vượt xa chi phí đầu tư cho tiết kiệm năng lượng.

Kết hợp tiết kiệm năng lượng, phát triển năng lượng tái tạo và sử dụng khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) có thể giúp giảm phát thải CO2 tới gần 20% vào năm 2030 và 40% vào 2050 so với kịch bản cơ sở. Điều này còn giúp giảm tổng chi phí hệ thống điện, giảm phụ thuộc vào nhập khẩu nhiên liệu và giảm chi phí y tế của xã hội.

Mặc dù việc đầu tư vào các công nghệ tiết kiệm năng lượng khiến chi phí tăng lên, nhưng Báo cáo khẳng định, chi phí đầu tư này vẫn thấp hơn nhiều so với số thu được từ tiết kiệm nhiên liệu và giảm đầu tư nguồn phát điện.

Ví dụ, vào năm 2030, nếu đầu tư vào công nghệ tiết kiệm năng lượng sẽ khiến Việt Nam phải bỏ thêm 7 tỷ USD thì số tiền lãi thu được sau khi trừ vốn đầu tư gốc sẽ là 3 tỷ USD.

Hơn nữa tiết kiệm năng lượng sẽ đóng góp giảm đáng kể phát thải CO2: áp dụng thành công các công nghệ tiết kiệm năng lượng có thể giúp giảm phát thải CO2 ở mức 83 triệu tấn vào năm 2030 và 237 triệu tấn vào năm 2050, chủ yếu trong các ngành: điện, công nghiệp và giao thông vận tải.

Để gặt hái tiềm năng này, cần đặt ưu tiên cao cho những biện pháp tiết kiệm năng lượng trong Quy hoạch Điện 8 và phải tập trung vào việc loại bỏ những rào cản để tạo điều kiện thuận lợi cho các đầu tư lớn vào công nghệ tiết kiệm năng lượng.

Nguyễn Hưng

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC HCM 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC ĐN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Nguyên liệu 9999 - HN 74,500 ▲1250K 75,450 ▲1250K
Nguyên liệu 999 - HN 74,400 ▲1250K 75,350 ▲1250K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Cập nhật: 26/04/2024 20:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
TPHCM - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Hà Nội - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Hà Nội - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Đà Nẵng - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Đà Nẵng - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Miền Tây - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Miền Tây - SJC 83.000 ▲1000K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 ▲800K 74.500 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 ▲600K 56.030 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 ▲460K 43.730 ▲460K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 ▲330K 31.140 ▲330K
Cập nhật: 26/04/2024 20:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 ▲80K 7,590 ▲80K
Trang sức 99.9 7,375 ▲80K 7,580 ▲80K
NL 99.99 7,380 ▲80K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
Miếng SJC Thái Bình 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Miếng SJC Nghệ An 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Miếng SJC Hà Nội 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Cập nhật: 26/04/2024 20:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 ▲1000K 85,200 ▲900K
SJC 5c 83,000 ▲1000K 85,220 ▲900K
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 ▲1000K 85,230 ▲900K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 ▲700K 75,500 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 ▲700K 75,600 ▲700K
Nữ Trang 99.99% 73,700 ▲800K 74,700 ▲700K
Nữ Trang 99% 71,960 ▲693K 73,960 ▲693K
Nữ Trang 68% 48,451 ▲476K 50,951 ▲476K
Nữ Trang 41.7% 28,803 ▲292K 31,303 ▲292K
Cập nhật: 26/04/2024 20:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 26/04/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,238 16,258 16,858
CAD 18,236 18,246 18,946
CHF 27,248 27,268 28,218
CNY - 3,427 3,567
DKK - 3,552 3,722
EUR #26,302 26,512 27,802
GBP 31,142 31,152 32,322
HKD 3,107 3,117 3,312
JPY 157.31 157.46 167.01
KRW 16.21 16.41 20.21
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,221 2,341
NZD 14,812 14,822 15,402
SEK - 2,247 2,382
SGD 18,051 18,061 18,861
THB 632.98 672.98 700.98
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 26/04/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 26/04/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 26/04/2024 20:00