Những gam màu sáng tối trong bức tranh kinh tế - xã hội 2 tháng đầu năm

16:40 | 01/03/2019

159 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Mặc dù đánh giá bức tranh kinh tế - xã hội tiếp tục ổn định, diễn biến tích cực, song Chính phủ cũng chỉ một loạt các vấn đề tồn tại cần tập trung tháo gỡ trong thời gian tới.

Ngày 1/3, tại buổi họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 2, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng đã thông tin với báo chí tình hình phát triển kinh tế - xã hội 2 tháng đầu năm 2019.

Những gam màu sáng tối trong bức tranh kinh tế - xã hội 2 tháng đầu năm
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng trao đổi thông tin với báo chí tại buổi họp báo.

Theo Bộ trưởng Mai Tiến Dũng, Chính phủ đánh giá, nhìn chung, tình hình kinh tế - xã hội tháng 2/ 2019 tiếp tục ổn định, diễn biến tích cực trên hầu hết các lĩnh vực.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 2/2019 tăng 0,8% so với tháng trước. Lạm phát cơ bản tháng 2/2019 tăng 0,48% so với tháng trước và tăng 1,82% so với cùng kỳ năm trước, phù hợp với quy luật tháng Tết hằng năm, trong đó, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao nhất (tăng 1,73%) chủ yếu do giá các mặt hàng lương thực, thực phẩm tăng trong dịp Tết; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,69%, chủ yếu do giá gas tăng 3,51% và giá điện sinh hoạt tăng 0,69%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,66%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,35%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,26%.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng cao ở mức 9,2% so với cùng kỳ năm 2018 (cùng kỳ năm trước tăng 13,7%), trong đó ngành chế biến, chế tạo tăng 11,5%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 12,2% so với cùng kỳ (cùng kỳ năm trước tăng 9,25%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 9,28%. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tăng 5,9% so với cùng kỳ, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 9,9%; khu vực FDI (kể cả dầu thô) tăng 4,3%.

Cả nước có gần 16.000 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, giảm 14,6% về số doanh nghiệp. Nguyên nhân theo Bộ trưởng Mai Tiến Dũng là do thời gian nghỉ Tết Nguyên đán Kỷ Hợi kéo dài tới 9 ngày, nhiều hơn 2 ngày so với năm 2018; tâm lý chung là không muốn thành lập doanh nghiệp tại những ngày giáp Tết và trong tuần đầu sau kỳ nghỉ Tết. Tuy nhiên, xét về vốn đăng ký lại tăng tăng 25,4% so với cùng kỳ; có trên 10.000 doanh nghiệp trở lại hoạt động tăng 48,2% so với cùng kỳ.

Vốn FDI thực hiện tăng 9,8%. Đây cũng là mức tăng cao nhất của 2 tháng đầu năm trong vòng 3 năm trở lại đây cả về giá trị và tốc độ tăng. Vốn FDI cấp mới tăng 75,7% so với cùng kỳ; FDI tăng vốn tăng 22,1% so với cùng kỳ; góp vốn, mua cổ phần tăng 4 lần so với cùng kỳ. Tính chung, tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn mua cổ phần đạt 8,47 tỷ USD, tăng hơn 2,5 lần so với cùng kỳ năm 2018.

Lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong 02 tháng đầu năm 2019 ước đạt 3,15 triệu lượt khách, tăng 10,12% so với cùng kỳ. Trong đó, Hội nghị thượng đỉnh lần thứ hai giữa Mỹ - Triều Tiên diễn ra tại Hà Nội vào ngày 27-28/2 được coi là cơ hội “vàng” cho du lịch Việt Nam, thu hút một lượng lớn khách quốc tế. Kết quả, trong tháng 2, khách quốc tế đạt gần 1,59 triệu lượt, tăng 5,8% so với tháng trước và tăng 10,9% so với cùng kỳ năm 2018. Đây là tháng Việt Nam đón lượng khách quốc tế lớn nhất từ trước đến nay.

Những gam màu sáng tối trong bức tranh kinh tế - xã hội 2 tháng đầu năm

Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Mai Tiến Dũng, nền kinh tế còn nhiều khó khăn, thách thức và một số tồn tại, hạn chế cần được khắc phục trong thời gian tới như vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 2 giảm 3,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn Trung ương giảm 35,5%. Tính chung 2 tháng đầu năm nay, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2018 tăng 10,1%).

Thời tiết nắng ấm cũng khiến sâu bệnh gây hại trên lúa diễn biến phức tạp. Đáng chú ý là dịch tả lợn châu Phi đã bùng phát ổ dịch tại sáu tỉnh Hải Phòng, Thái Bình, Hưng Yên, Thanh Hóa, Hà Nội và Hà Nam. Nhiều sản phẩm xuất khẩu chủ lực giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước như điện thoại và linh kiện giảm 7,3% so với cùng kỳ năm trước; rau quả giảm 14,4%; cà phê giảm 26,9%; hạt điều giảm 21%; gạo giảm 17,5%; hạt tiêu giảm 20,6%.

“Chính phủ thống nhất cho rằng, những thành tựu đạt được của năm 2018 và tiếp tục phát triển ổn định trong 2 tháng đầu năm 2019 nói trên là rất phấn khởi, nhiều chỉ tiêu tiếp tục tăng cao hơn so với cùng kỳ. Bên cạnh những yếu tố thuận lợi, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng nền kinh tế nước ta còn gặp nhiều khó khăn, thách thức: Năng suất lao động và năng lực cạnh tranh còn thấp. Sức chống chịu của nền kinh tế chưa cao. Cạnh tranh thương mại Trung - Mỹ sẽ ảnh hưởng lớn phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong thời gian tới”, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng nói.

Về nhiệm vụ thời gian tới, Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương cần theo dõi sát diễn biến tình hình trong nước và quốc tế để kịp thời có những phản ứng chính sách phù hợp. Từng thành viên Chính phủ, các bộ ngành, địa phương khẩn trương chỉ đạo thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP, Nghị quyết số 02/NQ-CP và chương trình hành động của bộ ngành, địa phương. Kiên định thực hiện các nhiệm vụ, công việc đề ra, trong đó cần bám sát mục tiêu tại các kịch bản tăng trưởng GDP hằng quý, 6 tháng, cả năm. Quyết tâm hành động; nói đi đôi với làm; tăng cường kỷ luật kỷ cương; ttiếp ục tạo chuyển biến mạnh mẽ; nỗ lực phấn đấu ngay từ đầu năm để thực hiện thành công toàn diện các mục tiêu, nhiệm vụ năm 2019.

Hải Anh

Điểm nghẽn của xuất khẩu lúa gạo
Mục tiêu xuất khẩu 11 tỷ USD đồ gỗ, lâm sản năm 2019 là quá thấp
Đâu là lợi ích thực sự của ngành gỗ thông qua kênh đầu tư FDI?

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 87,500 89,300
AVPL/SJC HCM 87,500 89,300
AVPL/SJC ĐN 87,500 89,300
Nguyên liệu 9999 - HN 74,700 75,450
Nguyên liệu 999 - HN 74,600 75,150
AVPL/SJC Cần Thơ 87,500 89,300
Cập nhật: 27/05/2024 01:01
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.600 76.400
TPHCM - SJC 87.500 89.400
Hà Nội - PNJ 74.600 76.400
Hà Nội - SJC 87.500 89.400
Đà Nẵng - PNJ 74.600 76.400
Đà Nẵng - SJC 87.500 89.400
Miền Tây - PNJ 74.600 76.400
Miền Tây - SJC 87.700 89.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.600 76.400
Giá vàng nữ trang - SJC 87.500 89.400
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.600
Giá vàng nữ trang - SJC 87.500 89.400
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.600
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.500 75.300
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.230 56.630
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.800 44.200
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.080 31.480
Cập nhật: 27/05/2024 01:01
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,435 7,635
Trang sức 99.9 7,425 7,625
NL 99.99 7,440
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,435
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,515 7,665
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,515 7,665
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,515 7,665
Miếng SJC Thái Bình 8,750 8,950
Miếng SJC Nghệ An 8,750 8,950
Miếng SJC Hà Nội 8,750 8,950
Cập nhật: 27/05/2024 01:01
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 87,500 89,500
SJC 5c 87,500 89,520
SJC 2c, 1C, 5 phân 87,500 89,530
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 76,400
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 76,500
Nữ Trang 99.99% 74,600 75,600
Nữ Trang 99% 72,851 74,851
Nữ Trang 68% 49,063 51,563
Nữ Trang 41.7% 29,178 31,678
Cập nhật: 27/05/2024 01:01

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,368.75 16,534.09 17,064.46
CAD 18,066.32 18,248.80 18,834.18
CHF 27,124.16 27,398.15 28,277.00
CNY 3,443.11 3,477.89 3,589.99
DKK - 3,620.50 3,759.13
EUR 26,809.13 27,079.92 28,279.00
GBP 31,474.93 31,792.85 32,812.68
HKD 3,177.08 3,209.17 3,312.12
INR - 304.81 317.00
JPY 157.13 158.72 166.31
KRW 16.06 17.84 19.46
KWD - 82,772.18 86,080.98
MYR - 5,341.49 5,457.97
NOK - 2,336.27 2,435.45
RUB - 264.41 292.71
SAR - 6,768.94 7,039.53
SEK - 2,322.28 2,420.86
SGD 18,350.94 18,536.30 19,130.90
THB 613.77 681.97 708.08
USD 25,247.00 25,277.00 25,477.00
Cập nhật: 27/05/2024 01:01
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,560 16,580 17,180
CAD 18,329 18,339 19,039
CHF 27,313 27,333 28,283
CNY - 3,446 3,586
DKK - 3,612 3,782
EUR #26,764 26,974 28,264
GBP 31,890 31,900 33,070
HKD 3,130 3,140 3,335
JPY 158.01 158.16 167.71
KRW 16.43 16.63 20.43
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,326 2,446
NZD 15,331 15,341 15,921
SEK - 2,312 2,447
SGD 18,305 18,315 19,115
THB 642.25 682.25 710.25
USD #25,187 25,187 25,477
Cập nhật: 27/05/2024 01:01
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,300.00 25,307.00 25,477.00
EUR 27,011.00 27,119.00 28,313.00
GBP 31,672.00 31,863.00 32,836.00
HKD 3,199.00 3,212.00 3,316.00
CHF 27,331.00 27,441.00 28,284.00
JPY 158.46 159.10 166.26
AUD 16,510.00 16,576.00 17,076.00
SGD 18,501.00 18,575.00 19,122.00
THB 677.00 680.00 708.00
CAD 18,217.00 18,290.00 18,823.00
NZD 15,274.00 15,778.00
KRW 17.81 19.46
Cập nhật: 27/05/2024 01:01
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25267 25267 25477
AUD 16639 16689 17194
CAD 18360 18410 18862
CHF 27582 27632 28185
CNY 0 3481.8 0
CZK 0 1030 0
DKK 0 3660 0
EUR 27329 27379 28089
GBP 32119 32169 32829
HKD 0 3260 0
JPY 160.23 160.73 165.24
KHR 0 6.2261 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.0366 0
MYR 0 5560 0
NOK 0 2350 0
NZD 0 15347 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2360 0
SGD 18661 18711 19268
THB 0 654.3 0
TWD 0 780 0
XAU 8750000 8750000 8950000
XBJ 7000000 7000000 7550000
Cập nhật: 27/05/2024 01:01