Lực bật mới của thị trường bất động sản

13:52 | 06/10/2022

90 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Theo các chuyên gia bất động sản (BĐS), triển vọng khả quan của thị trường BĐS Việt Nam trong dài hạn đến từ nhiều yếu tố như: Diện tích bình quân đầu người, tỷ lệ đô thị hóa đang ở mức thấp; thu nhập của cư dân dự báo được cải thiện; việc nới room tín dụng BĐS...
Lực bật mới của thị trường bất động sản
Hà Nội đang có xu hướng phát triển các phân khúc bất động sản ra khu vực ngoại thành

Trong nửa đầu năm 2022, các hoạt động phát triển dự án BĐS thương mại cả nước ghi nhận diễn biến chậm hơn so với năm 2021 (cấp phép giảm 61%, đang triển khai giảm 7%, đủ điều kiện mở bán giảm 32% so với cùng kỳ năm 2021), nhưng trong 3 tháng qua đã có tín hiệu khả quan. Các tỉnh, thành phố Bình Dương, Kiên Giang, Quảng Ngãi, Nghệ An, Đà Nẵng, Phú Thọ, Hà Nội... đang là những địa phương dẫn đầu về phát triển nhà ở thương mại.

Hoạt động giao dịch đất nền trên cả nước cũng có dấu hiệu tích cực với gần 367.000 giao dịch, chiếm hơn 80% số lượng các sản phẩm liên quan đến nhà ở.

Khác với TP Hồ Chí Minh, phân khúc BĐS trung cấp tại Hà Nội vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn cung, nhưng phân khúc BĐS bình dân ngày càng thu hẹp. Dự án nhà phố và biệt thự đang diễn biến khá tích cực về nguồn cung. Từ đầu năm 2022 đến nay, tại TP Hồ Chí Minh, nguồn cung mới căn hộ đã có xu hướng cải thiện đáng kể, tuy nhiên, tỷ lệ hấp thụ chỉ ở mức 76%, thấp nhất trong 5 năm trở lại đây. Nguồn cung mới ngày càng có xu hướng dịch chuyển về phân khúc cao cấp và hạng sang, trong khi quỹ đất ngày càng khan hiếm.

Theo thông tin từ các công ty chứng khoán, trong ngắn hạn và trung hạn, dự báo các tỉnh, thành phố đang đứng đầu về mật độ dân số và thu nhập so với mặt bằng chung cả nước như: Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cần Thơ, Đà Nẵng, Bắc Ninh, Hải Phòng, Vĩnh Phúc... sẽ là các khu vực có hoạt động phát triển BĐS nhanh so với mức tăng trưởng chung. Thị trường BĐS các khu vực được sự đầu tư hạ tầng của Chính phủ cũng dự báo sẽ phát triển sôi động hơn trong trung hạn.

Lực bật mới của thị trường bất động sản
Thị trường bất động sản còn nhiều dư địa tăng trưởng dài hạn

Đáng chú ý, tại Hà Nội đang có xu hướng phát triển các phân khúc BĐS ra khu vực ngoại thành. Trong bối cảnh quỹ đất nội thành khan hiếm, các dự án có xu hướng phát triển rộng ra các khu vực ngoại thành như: Hoài Đức, Đan Phượng, Hoàng Mai, Long Biên..., cũng như mở rộng ra các tỉnh lân cận như: Hưng Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang... Xu hướng này rất có thể sẽ tiếp tục thúc đẩy giá BĐS khu vực ngoại thành và các tỉnh lân cận tăng nhanh trong thời gian tới.

Tại TP Đà Nẵng, trong trung hạn và dài hạn, định hướng phát triển ngành du lịch, logistics và công nghệ cao theo quy hoạch TP Đà Nẵng 2021-2030 sẽ tạo điều kiện để phát triển các dự án lớn như: Cảng Liên Chiểu, tàu điện ngầm kết nối các quận trung tâm, tàu điện kết nối Hội An, khơi thông sông Cổ Cò... mang đến lợi thế cho các phân khúc BĐS nghỉ dưỡng, căn hộ cao tầng và gia tăng giá trị của tất cả các loại hình BĐS nói chung.

Tỉnh Đồng Nai cũng được hưởng lợi mạnh mẽ từ hạ tầng phát triển trong dài hạn, nhất là từ quá trình dịch chuyển mở rộng phía Đông TP Hồ Chí Minh và các chính sách phát triển hạ tầng trọng điểm của Đồng Nai như: Sân bay Long Thành, cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu, cao tốc Dầu Giây - Tân Phú, cầu Phước An...

Đặc biệt, Đồng bằng sông Cửu Long được đánh giá là khu vực sẽ hưởng lợi từ chính sách phát triển hạ tầng của Chính phủ, bao gồm: Cao tốc Cần Thơ - Hậu Giang - Cà Mau, cao tốc Cao Lãnh - Phú Hữu, cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, cảng Định An, mở rộng kênh Chợ Gạo...

Với những dự báo triển vọng sáng sủa trong dài hạn, các chuyên gia kinh tế, chuyên gia BĐS cho rằng, thị trường BĐS đang “nóng” trở lại, nhất là sau khi Ngân hàng Nhà nước nới room tín dụng BĐS cho các ngân hàng thương mại. Đây cũng chính là giai đoạn “vàng” để nhà đầu tư có thể chọn được sản phẩm tốt cho những chiến lược đầu tư bền vững.

Thực tế, việc siết tín dụng vào BĐS thời gian qua là “quãng nghỉ” để các doanh nghiệp - chủ đầu tư định hướng lại mục tiêu phát triển của mình. Khi không có nguồn vốn dồi dào để phát triển dự án ồ ạt, doanh nghiệp sẽ phải tự đánh giá được kết quả đầu tư hiệu quả hay không, đẩy mạnh hợp tác, liên doanh, liên kết, sáp nhập, lựa chọn đối tác mới có uy tín và năng lực tài chính để hợp tác đầu tư, nhằm tăng cường nguồn lực, học hỏi kinh nghiệm và nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, các ngân hàng không đóng cửa với tất cả các doanh nghiệp. Những doanh nghiệp kinh doanh, lợi nhuận tốt, có quỹ đất... vẫn đủ điều kiện tiếp cận nguồn tín dụng ngân hàng. Do đó, dự án muốn vay vốn ngân hàng cần có đầy đủ hồ sơ pháp lý (bàn giao đất, giấy phép xây dựng, giấy phép mở bán...). Đặc biệt, những chủ đầu tư có năng lực tài chính mạnh để triển khai dự án BĐS sẽ được ngân hàng sẵn sàng cho vay.

Hiện tại, thị trường BĐS đang trong giai đoạn thanh lọc mạnh mẽ để chọn ra những dòng sản phẩm tiềm năng, những doanh nghiệp - chủ đầu tư đủ tiềm lực và đi đúng hướng, những địa phương có lợi thế bền vững. Do đó, doanh nghiệp - chủ đầu tư tham gia vào thị trường BĐS lúc này cần nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường để đưa ra quyết định chính xác. Có thể nói, đây là giai đoạn thuận lợi để doanh nghiệp - đầu tư có thể chọn được sản phẩm tốt, tạo nguồn cung bền vững cho thị trường.

Đánh giá về vấn đề này, ông Nguyễn Văn Đính - Phó chủ tịch Hiệp hội BĐS Việt Nam, Chủ tịch Hội Môi giới BĐS Việt Nam - cho rằng, sau gần nửa năm thắt chặt tín dụng, thị trường BĐS bị ảnh hưởng không ít. Nhiều doanh nghiệp lao đao vì thiếu vốn, khiến thị trường đột ngột giảm tốc. Tuy nhiên, hiện nay room tín dụng BĐS của các ngân hàng đã được nới rộng, đây là tin tốt cho thị trường BĐS phát triển theo hướng đi lên. Song, nguồn vốn vay BĐS chỉ dành cho những doanh nghiệp - chủ đầu tư giàu tiềm lực, đầu tư những dự án pháp lý rõ ràng.

Cùng quan điểm, theo các chuyên gia BĐS, thị trường BĐS những tháng cuối năm 2022 là giai đoạn bật dậy sau quãng nghỉ. Việc Ngân hàng Nhà nước chính thức đưa ra thông tin về việc nới room tín dụng BĐS vào ngày 7-9-2022 đã tác động mạnh mẽ đến tâm lý doanh nghiệp, nhà đầu tư. Trong khi các doanh nghiệp BĐS hồ hởi đón chờ dòng vốn mới tiếp sức từ ngân hàng, các nhà đầu tư cũng đang chuẩn bị cho chu kỳ đầu tư mới khi hàng loạt dự án tốt sắp ra sản phẩm.

Hiện nay room tín dụng BĐS đã được nới rộng, đây là tin tốt cho thị trường BĐS nóng trở lại, bật dậy sau quãng nghỉ. Song, nguồn vốn vay BĐS chỉ dành cho những doanh nghiệp - chủ đầu tư giàu tiềm lực, đầu tư những dự án pháp lý

rõ ràng.

Phương Nam

Cổ phiếu Bất động sản Điện lực miền Trung tăng trần 11 phiên liên tiếpCổ phiếu Bất động sản Điện lực miền Trung tăng trần 11 phiên liên tiếp
Các đô thị trẻ “thay da đổi thịt” nhờ dự án bất động sản tích hợp trung tâm thương mạiCác đô thị trẻ “thay da đổi thịt” nhờ dự án bất động sản tích hợp trung tâm thương mại
Nhà đầu tư “săn tìm” bất động sản thấp tầng tại Vinhomes Ocean Park 2 - The EmpireNhà đầu tư “săn tìm” bất động sản thấp tầng tại Vinhomes Ocean Park 2 - The Empire
Giải pháp thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vữngGiải pháp thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC HCM 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC ĐN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Nguyên liệu 9999 - HN 74,500 ▲1250K 75,450 ▲1250K
Nguyên liệu 999 - HN 74,400 ▲1250K 75,350 ▲1250K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Cập nhật: 26/04/2024 23:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
TPHCM - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Hà Nội - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Hà Nội - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Đà Nẵng - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Đà Nẵng - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Miền Tây - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Miền Tây - SJC 83.000 ▲1000K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 ▲800K 74.500 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 ▲600K 56.030 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 ▲460K 43.730 ▲460K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 ▲330K 31.140 ▲330K
Cập nhật: 26/04/2024 23:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 ▲80K 7,590 ▲80K
Trang sức 99.9 7,375 ▲80K 7,580 ▲80K
NL 99.99 7,380 ▲80K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
Miếng SJC Thái Bình 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Miếng SJC Nghệ An 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Miếng SJC Hà Nội 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Cập nhật: 26/04/2024 23:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 ▲1000K 85,200 ▲900K
SJC 5c 83,000 ▲1000K 85,220 ▲900K
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 ▲1000K 85,230 ▲900K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 ▲700K 75,500 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 ▲700K 75,600 ▲700K
Nữ Trang 99.99% 73,700 ▲800K 74,700 ▲700K
Nữ Trang 99% 71,960 ▲693K 73,960 ▲693K
Nữ Trang 68% 48,451 ▲476K 50,951 ▲476K
Nữ Trang 41.7% 28,803 ▲292K 31,303 ▲292K
Cập nhật: 26/04/2024 23:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 26/04/2024 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,204 16,224 16,824
CAD 18,202 18,212 18,912
CHF 27,183 27,203 28,153
CNY - 3,427 3,567
DKK - 3,539 3,709
EUR #26,201 26,411 27,701
GBP 31,004 31,014 32,184
HKD 3,107 3,117 3,312
JPY 156.79 156.94 166.49
KRW 16.21 16.41 20.21
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,214 2,334
NZD 14,777 14,787 15,367
SEK - 2,236 2,371
SGD 18,035 18,045 18,845
THB 631.22 671.22 699.22
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 26/04/2024 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 26/04/2024 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 26/04/2024 23:00