Hướng đi mới của nông nghiệp Việt

10:00 | 28/02/2018

730 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, thách thức, thiên tai xảy ra liên tiếp, nhưng được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và sự vào cuộc của các bộ, ngành, địa phương, trong năm 2017, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) đã “xuất sắc” đưa ngành nông nghiệp vượt qua khó khăn để đạt được những thành tựu to lớn.

Nhân dịp đầu xuân Mậu Tuất 2018, phóng viên Báo Năng lượng Mới đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Xuân Cường - Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT về những kết quả đạt được trong năm 2017 và hướng đi của ngành nông nghiệp trong năm 2018.

huong di moi cua nong nghiep viet
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường

PV: Thưa Bộ trưởng, năm 2017 là năm mà ngành nông nghiệp nước ta gặp rất nhiều khó khăn, thách thức, nhưng ngành đã vượt qua tất cả để đạt được những thành tựu to lớn. Ông đánh giá như thế nào về kết quả của ngành nông nghiệp trong năm 2017?

Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường: Năm qua, ngành nông nghiệp triển khai các nhiệm vụ trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, thách thức, thiên tai, bão lũ xảy ra liên tiếp. Thị trường tiêu thụ nông sản tiếp tục phải đối mặt với nhiều rào cản thương mại, cạnh tranh gay gắt trong khu vực và thế giới. Dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi tiềm ẩn nguy cơ bùng phát. Quy mô sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, phân tán.

Tuy nhiên, được sự quan tâm của Đảng, chỉ đạo sát sao của Chính phủ, giám sát của Quốc hội, sự phối hợp chặt chẽ của các bộ ngành, địa phương và sự chung sức vượt khó, sáng tạo của cộng đồng doanh nghiệp, bà con nông dân trên cả nước, sự đồng hành của các cơ quan truyền thông… đã tạo đồng thuận cao trong xã hội, thống nhất hành động trong toàn ngành nên ngành nông nghiệp đã vượt qua khó khăn, thách thức, đạt được nhiều kết quả quan trọng, toàn diện.

Cơ cấu sản xuất tiếp tục được điều chỉnh phù hợp và hiệu quả hơn. Bộ NN&PTNT đã phối hợp với các địa phương chỉ đạo chặt chẽ mùa vụ, bố trí cơ cấu giống, cơ cấu sản xuất phát huy theo lợi thế của địa phương, vùng miền gắn với nhu cầu thị trường cũng như thích ứng với thời tiết; tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ với các quy trình sản xuất tiên tiến; tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị; khẩn trương khôi phục lại sản xuất sau thiên tai; tăng cường kiểm soát phòng, chống dịch bệnh. Vì vậy, sản lượng nhiều loại nông sản tăng mạnh trong điều kiện thiên tai khắc nghiệt, đáp ứng dồi dào nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Cơ cấu sản phẩm đã chuyển mạnh theo hướng tăng tỷ trọng các ngành hàng, sản phẩm có lợi thế trên thị trường khu vực.

Tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp đạt khoảng 2,9% (gấp hơn 2 lần năm 2016). Tổng kim ngạch xuất khẩu nông - lâm - thủy sản đạt 36,52 tỉ USD (vượt hơn 4 tỉ USD so với mục tiêu đề ra; tăng 4,2 tỉ USD so với năm 2016). Chương trình xây dựng mục tiêu nông thôn mới cũng vượt mục tiêu đề ra, số liệu cập nhật đến 31-12-2017 đã có 3.067 xã (chiếm 34% xã) được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới (kế hoạch là 31%), có 44 huyện đạt nông thôn mới tăng 14 huyện so với năm 2016. Số doanh nghiệp thành lập mới trong năm hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp đạt gần 2.000 doanh nghiệp (tăng khoảng 20% mức bình quân của các năm trước đây). Tỷ lệ che phủ rừng đạt mục tiêu đề ra là 41,45%.

PV: Để đạt được những thành tựu đó, Bộ NN&PTNT đã có những chỉ đạo cụ thể như thế nào, thưa ông?

Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường: Xác định thị trường là khâu then chốt cho sản xuất nông nghiệp nên Bộ NN&PTNT đã phối hợp với các bộ, ngành, chỉ đạo quyết liệt để phát triển thị trường. Thị trường tiêu thụ nông sản ngày càng được mở rộng, điển hình như việc tháo gỡ nhiều rào cản, vướng mắc cho xuất khẩu và thúc đẩy tiêu dùng trong nước.

huong di moi cua nong nghiep viet
Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường chỉ đạo triển khai công tác

Trong năm 2017, hầu hết các loại nông sản được tiêu thụ kịp thời, giá ở mức có lợi cho nông dân, xuất khẩu tăng mạnh (trừ mặt hàng thịt lợn 9 tháng đầu năm tồn kho và mất giá). Nhiều mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch tăng cao như: rau quả tăng 40,5%, cao su tăng 35,6%, gạo tăng 23,2%, điều tăng 23,8%, tôm tăng 22,3%, đồ gỗ và lâm sản cũng tăng 9,2%... Ngành nông nghiệp vẫn duy trì 10 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1,0 tỉ USD/năm, trong đó có 5 mặt hàng (tôm, trái cây, hạt điều, cà phê và đồ gỗ) đạt kim ngạch xuất khẩu trên 3 tỉ USD/năm.

Các hình thức tổ chức sản xuất liên tục được đổi mới và nâng cao hiệu quả. Các doanh nghiệp Nhà nước, các công ty nông lâm nghiệp tiếp tục được sắp xếp, chuyển đổi hoạt động hiệu quả hơn. Lực lượng doanh nghiệp nông nghiệp ngày càng lớn mạnh và tâm huyết đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn hơn, đang trở thành nòng cốt trong chuỗi giá trị nông sản.

Khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ cao được chuyển giao và ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp ngày càng nhiều. Được sự quan tâm của Chính phủ, Bộ NN&PTNT đã chỉ đạo, thực hiện quyết liệt sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ và các lĩnh vực này ngày càng được chú trọng phát triển. Nhiều địa phương, doanh nghiệp, hợp tác xã đã chọn nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ là hướng đi chính và đã đạt được những thành công rõ rệt.

Công tác quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp và an toàn thực phẩm tiếp tục được tăng cường. Năm 2017, Bộ NN&PTNT tiếp tục chọn là “năm cao điểm hành động về quản lý chất lượng an toàn thực phẩm”. Bộ đã tập trung chỉ đạo giải quyết những vấn đề căn cơ của công tác quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp và an toàn thực phẩm nông sản, đẩy mạnh phát triển chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn và chương trình “nông nghiệp sạch cho người Việt Nam, cho thế giới”. Công tác thanh, kiểm tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh nông sản được tăng cường. Đã kiểm soát tốt việc sử dụng chất cấm, chất độc hại trong chăn nuôi. Phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm trường hợp vi phạm, điển hình là các vụ bơm tạp chất vào tôm, tiêm thuốc an thần cho lợn, sử dụng hóa chất công nghiệp trong sản xuất thức ăn chăn nuôi.

Hạ tầng nông nghiệp, nông thôn tiếp tục được đầu tư nâng cấp; công tác thủy lợi, phòng chống thiên tai được quan tâm, từng bước hoàn thiện tổ chức bộ máy và tăng cường năng lực; vốn đầu tư công được quản lý chặt chẽ. Thực hiện nghiêm Luật Đầu tư công và các quy định hiện hành nên vốn đầu tư được quản lý chặt chẽ và nghiêm minh.

PV: Năm 2017 được coi là một năm thành công của ngành nông nghiệp, vậy mục tiêu phát triển ngành trong năm 2018 như thế nào, thưa Bộ trưởng?

Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường: Năm 2018 là năm bản lề, có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện kế hoạch 5 năm 2016-2020 của cả nước và của ngành. Bộ NN&PTNT xác định, bên cạnh những thuận lợi, ngành nông nghiệp sẽ tiếp tục đối mặt với những khó khăn, thách thức. Trên cơ sở đó, một số chỉ tiêu, kế hoạch chính của ngành trong năm 2018 được xác định là: phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 2,8-3,0%; kim ngạch xuất khẩu khoảng 38-40 tỉ USD; có 37% số xã và 52 huyện đạt tiêu chí nông thôn mới; tỷ lệ che phủ rừng đạt 41,6%.

Để thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, toàn ngành xác định: Tiếp tục thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Quốc hội, Chính phủ về kế hoạch phát triển đất nước, triển khai ngay từ đầu năm Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách Nhà nước năm 2018. Tiếp tục thực hiện mạnh mẽ cơ cấu ngành, tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị với quy mô lớn hơn, phù hợp với lợi thế, nhu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, phát triển thị trường kết nối chặt chẽ hơn với mạng lưới tiêu thụ toàn cầu. Coi trọng ứng dụng khoa học công nghệ nhất là công nghệ cao, khuyến khích sản xuất nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo thuận lợi hơn nữa cho phát triển doanh nghiệp, kinh tế hợp tác. Nâng cao năng lực phòng chống và giảm nhẹ thiên tai. Tăng cường thể chế, hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật, rà soát tinh gọn tổ chức bộ máy, sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả các đơn vị sự nghiệp công lập. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, kiến tạo và hành động quyết liệt, tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp hiện đại, hiệu quả hơn và thúc đẩy xây dựng nông thôn mới hiệu quả, bền vững.

PV: Xin cảm ơn Bộ trưởng!

Theo Bộ NN&PTNT, trong năm 2017, tổng kim ngạch xuất khẩu nông - lâm - thủy sản ước đạt 36,37 tỉ USD (tăng 4,19 tỉ USD); thặng dư thương mại ước đạt 8,55 tỉ USD (tăng khoảng 1,1 tỉ USD so với năm 2016). Trong đó, xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt 18,96 tỉ USD; thủy sản ước đạt 8,32 tỉ USD; đồ gỗ và lâm sản ước đạt 8 tỉ USD.

Hương Lan - Thiên Minh

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC HCM 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC ĐN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Nguyên liệu 9999 - HN 74,500 ▲1250K 75,450 ▲1250K
Nguyên liệu 999 - HN 74,400 ▲1250K 75,350 ▲1250K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Cập nhật: 26/04/2024 22:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
TPHCM - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Hà Nội - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Hà Nội - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Đà Nẵng - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Đà Nẵng - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Miền Tây - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Miền Tây - SJC 83.000 ▲1000K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 ▲800K 74.500 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 ▲600K 56.030 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 ▲460K 43.730 ▲460K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 ▲330K 31.140 ▲330K
Cập nhật: 26/04/2024 22:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 ▲80K 7,590 ▲80K
Trang sức 99.9 7,375 ▲80K 7,580 ▲80K
NL 99.99 7,380 ▲80K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
Miếng SJC Thái Bình 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Miếng SJC Nghệ An 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Miếng SJC Hà Nội 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Cập nhật: 26/04/2024 22:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 ▲1000K 85,200 ▲900K
SJC 5c 83,000 ▲1000K 85,220 ▲900K
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 ▲1000K 85,230 ▲900K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 ▲700K 75,500 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 ▲700K 75,600 ▲700K
Nữ Trang 99.99% 73,700 ▲800K 74,700 ▲700K
Nữ Trang 99% 71,960 ▲693K 73,960 ▲693K
Nữ Trang 68% 48,451 ▲476K 50,951 ▲476K
Nữ Trang 41.7% 28,803 ▲292K 31,303 ▲292K
Cập nhật: 26/04/2024 22:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 26/04/2024 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,265 16,285 16,885
CAD 18,236 18,246 18,946
CHF 27,223 27,243 28,193
CNY - 3,427 3,567
DKK - 3,549 3,719
EUR #26,273 26,483 27,773
GBP 31,126 31,136 32,306
HKD 3,107 3,117 3,312
JPY 157.27 157.42 166.97
KRW 16.22 16.42 20.22
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,222 2,342
NZD 14,833 14,843 15,423
SEK - 2,246 2,381
SGD 18,061 18,071 18,871
THB 632.61 672.61 700.61
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 26/04/2024 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 26/04/2024 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 26/04/2024 22:00