Doanh nghiệp Việt “chưa đủ trình” chơi với FDI

11:38 | 19/04/2016

600 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Việc kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tiếp tục cho thấy một thực tế, doanh nghiệp Việt vẫn chưa thể tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng của doanh nghiệp FDI.
doanh nghiep viet chua du trinh choi voi fdi
Ảnh minh họa.

Từ nhiều năm nay, bài toán xuất nhập khẩu của khu vực FDI luôn được biết đến là đề tài “nóng” thu hút sự quan tâm đặc biệt của giới đầu tư, các nhà phân tích cũng như các cơ quan quản lý. Xuất khẩu của khu vực FDI chiếm tỉ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhưng cũng lại nhập khẩu lắm. Và điều này dẫn tới một thực tế, cán cân xuất nhập khẩu của khu vực kinh tế này rất khiêm tốn, chưa tương xứng với những ưu đãi mà Chính phủ cũng như các địa phương dành cho các doanh nghiệp FDI.

Theo số liệu thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy, trong quý I/2016, tổng kim ngạch xuất nhập của khu vực FDI đạt 49,5 tỉ USD, tương đương 65% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của nền kinh tế (kim ngạch xuất nhập khẩu quý I/2016 đạt 76,2 tỉ USD). Trong đó, xuất khẩu của khu vực FDI đạt hơn 27 tỉ USD, chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch xuất khẩu (xuất khẩu quý I/2016 đạt 38,77 tỉ USD). Nhưng ở chiều ngược lại, nhập khẩu của khu vực FDI cũng lên tới 22,5 tỉ USD, chiếm khoảng 60% tổng kim ngạch nhập khẩu (nhập khẩu quý I/2016 là 37,4 tỉ USD).

Còn tính trong năm 2015, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của khu vực kinh tế FDI cũng chiếm tới hơn 63% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của nền kinh tế, đạt 207,8 tỉ USD trên tổng số 327,7 tỉ USD của nền kinh tế. Trong đó đó, xuất khẩu đạt 110,59 tỉ USD và nhập khẩu đạt 97,26 tỉ USD tăng 15,5%.

Cán cân thương mại của Việt Nam hiện đang phụ thuộc quá nhiều vào khu vực FDI. Sự phụ thuộc này theo cảnh báo của giới chuyên gia là sẽ đặt nền kinh tế đứng trước những yếu tố rủi ro rất lớn, dễ bị tổn thương.

Ông Nguyễn Tiến Vỵ - Vụ trưởng Vụ Kế hoạch (Bộ Công Thương) trong một cuộc họp giao ban của Bộ Công Thương đã đưa cảnh báo, việc tăng trưởng xuất khẩu phụ thuộc khá lớn vào sản phẩm xuất khẩu của một số ít doanh nghiệp FDI sẽ không đảm bảo tính bền vững trong tăng trưởng xuất khẩu, nhất là trường hợp các doanh nghiệp nghiệp này bị suy giảm doanh số tiêu thụ hay gặp những biến cố bất thường khác. Ngoài ra, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu nhiều nguyên, nhiên liệu phục vụ sản xuất và xuất khẩu. Do đó, phụ thuộc nhiều vào thị trường cung cấp ở nước ngoài, khi giá cả và chính sách biến động sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu.

Giảm thiểu phụ thuộc vào khu vực FDI vì thế đang là vấn đề cấp bách đối với nền kinh tế. Nhưng có cũng có một thực tế đáng buồn là khả năng liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với khu vực FDI lại rất khiêm tốn, yếu ớt.

Tại sao lại có thực tế này? Theo ông Vũ Tiến Lộc – Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đó trước tiên là việc Việt Nam đang có quá nhiều doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, chiếm tới 96% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động. Và vì quá nhỏ, siêu nhỏ nên năng lực tài chính, trình độ quản trị… yếu, kém, không thể tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng của các doanh nghiệp FDI cũng như tham gia vào chuỗi giá trị, cung ứng toàn cầu.

Thực tế này cũng được phản ánh trong kết quả điều tra chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 2015 (PCI 2015) rằng: Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa đi lên từ các mô hình sản xuất gia đình, cá thể nhỏ lẻ, khi có cơ hội kinh doanh thì thành lập doanh nghiệp. Có tới 77% các doanh nghiệp siêu nhỏ và 69% doanh nghiệp nhỏ đi lên từ mô hình hộ kinh doanh. Các doanh nghiệp dân doanh trong nước phần lớn vẫn quẩn quanh ở thị trường nội địa. Chỉ có 3% doanh nghiệp siêu nhỏ, 4% doanh nghiệp nhỏ và gần 9% doanh nghiệp quy mô vừa có khách hàng là các cá nhân, doanh nghiệp ở nước ngoài. Ngay cả các doanh nghiệp lớn trong nước, việc vươn được ra thị trường nước ngoài vẫn ở một tỉ lệ rất khiêm tốn (24%).

Dưới một góc nhìn khác, tại buổi gặp gỡ, đối thoại với Tổng giám đốc WTO Roberto Azevedo, Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh khi được hỏi về quan điểm về việc xuất khẩu phụ thuộc vào FDI đã đề cập: Đúng là xuất khẩu của chúng ta đang phụ thuộc nhiều vào khu vực FDI và điều này sẽ khiến nền kinh tế đứng trước những thách thức rất lớn. Nhưng vấn đề này cần phải được nhìn nhận một cách khách quan, 2 chiều.

“Có rất nhiều doanh nghiệp đã đặt vấn đề là tại sao họ có thể làm ra được một sản phẩm là đầu vào cho chuỗi sản xuất của doanh nghiệp FDI, ví như cái cốc chẳng hạn nhưng họ lại không dùng, lại đi nhập khẩu nước thứ 3 hoặc từ công ty vệ tinh của họ. Vậy vấn đề ở đây là gì? Là chúng ta mới nhìn ra việc doanh nghiệp FDI cần cái cốc nhưng lại không tìm hiểu xem họ cần cái cốc như thế nào. Doanh nghiệp FDI rất cần các nhà cung cấp sản phẩm đầu vào là doanh nghiệp trong nước nhưng vấn đề là họ lại rất khó khăn trong việc tìm kiếm các nhà cung cấp đáp ứng được các tiêu chuẩn” – Thứ trưởng Khánh nói.

Cũng theo Thứ trưởng Khánh thì nguyên nhân của tình trạng này trước hết là do doanh nghiệp, do sự chậm chế trong đổi mới tư duy quản lý, quản trị của doanh nghiệp. Và thứ nữa đó là lâu nay, Chính phủ mới chủ yếu hỗ trợ doanh nghiệp bằng “tiền” thông qua các khoản ưu đãi về thuế, về vốn vay…

Chính vì vậy, để cải thiện vấn đề này, để doanh nghiệp Việt Nam tham gia ngày càng sâu hơn vào chuỗi sản xuất của khu vực FDI cũng như chuỗi cung ứng toàn cầu, qua đó giảm thiểu sự phụ thuộc của xuất khẩu vào FDI, doanh nghiệp cần phải đẩy mạnh đổi mới tư duy quản lý, quản trị doanh nghiệp. Chính phủ cũng sẽ thay đổi cách thức hỗ trợ doanh nghiệp, đó không chỉ là những chính sách hỗ trợ về thuế, tiền thuê đất mà còn là việc “dạy doanh nghiệp cách làm giàu”!

Thanh Ngọc

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 84,800
AVPL/SJC HCM 82,600 84,800
AVPL/SJC ĐN 82,600 84,800
Nguyên liệu 9999 - HN 74,500 75,450
Nguyên liệu 999 - HN 74,400 75,350
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 84,800
Cập nhật: 27/04/2024 02:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 75.600
TPHCM - SJC 83.000 85.200
Hà Nội - PNJ 73.800 75.600
Hà Nội - SJC 83.000 85.200
Đà Nẵng - PNJ 73.800 75.600
Đà Nẵng - SJC 83.000 85.200
Miền Tây - PNJ 73.800 75.600
Miền Tây - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 75.600
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 74.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 56.030
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 43.730
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 31.140
Cập nhật: 27/04/2024 02:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 7,590
Trang sức 99.9 7,375 7,580
NL 99.99 7,380
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 7,620
Miếng SJC Thái Bình 8,320 8,520
Miếng SJC Nghệ An 8,320 8,520
Miếng SJC Hà Nội 8,320 8,520
Cập nhật: 27/04/2024 02:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 85,200
SJC 5c 83,000 85,220
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 85,230
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 75,500
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 75,600
Nữ Trang 99.99% 73,700 74,700
Nữ Trang 99% 71,960 73,960
Nữ Trang 68% 48,451 50,951
Nữ Trang 41.7% 28,803 31,303
Cập nhật: 27/04/2024 02:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 27/04/2024 02:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,233 16,253 16,853
CAD 18,228 18,238 18,938
CHF 27,206 27,226 28,176
CNY - 3,427 3,567
DKK - 3,544 3,714
EUR #26,239 26,449 27,739
GBP 31,095 31,105 32,275
HKD 3,107 3,117 3,312
JPY 156.48 156.63 166.18
KRW 16.2 16.4 20.2
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,217 2,337
NZD 14,797 14,807 15,387
SEK - 2,241 2,376
SGD 18,043 18,053 18,853
THB 632.05 672.05 700.05
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 27/04/2024 02:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 27/04/2024 02:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 27/04/2024 02:45