Vì sao lãi suất cho vay không giảm?

05:00 | 09/09/2016

572 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Diễn biến lãi suất liên tục giảm trên thị trường liên ngân hàng cho thấy, một lượng tiền lớn đang dư thừa trong hệ thống ngân hàng. Trong khi đó, lãi suất cho vay ra đối với nền kinh tế chỉ mới giảm nhỏ giọt trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng từ đầu năm vẫn ở mức thấp.

Ngân hàng đang dư tiền

Trong suốt tháng 8 vừa qua, lãi suất giao dịch VND trên thị trường liên ngân hàng trong nước liên tục giảm, đặc biệt giảm mạnh ở các kỳ hạn dưới 1 tháng. Cụ thể, so sánh tại thời điểm đầu và cuối tháng 8, lãi suất giao dịch qua đêm (ON) giảm từ 1,48% xuống còn 0,58%, lãi suất 1 tuần giảm từ 1,62% xuống còn 0,65%, lãi suất 2 tuần giảm từ 1,9% xuống còn 0,93%, lãi suất 1 tháng giảm từ 2,48% xuống còn 1,9%. Với các kỳ hạn dài hơn, lãi suất giao dịch cũng đều xác lập mặt bằng thấp hơn thời điểm đầu tháng, tuy nhiên, mức độ giảm không lớn, chẳng hạn, kỳ hạn 6 tháng giảm từ 6,63% xuống 4,48%, kỳ hạn 1 năm giảm từ 5,03% xuống còn 5,04%.

vi sao lai suat cho vay khong giam

Như vậy, có thể thấy sau khi giữ khá ổn định trong tháng 7, bước qua tháng 8 thì lãi suất VND trên thị trường liên ngân hàng đã giảm khá sâu, lập một mức sàn mới thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây.

Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng đang tích cực hút tiền từ hệ thống các ngân hàng thông qua phát hành tín phiếu kỳ hạn ngắn liên tục trong thời gian qua. Tín phiếu kỳ hạn 14 ngày tiếp tục được phát hành liên tiếp với tổng giá trị từ ngày 15 đến 19-8 đạt 27.000 tỉ đồng, trong khi lượng tín phiếu đáo hạn đạt 20.999 tỉ đồng. Như vậy, thông qua kênh tín phiếu, NHNN đã hút ròng hơn 6.000 tỉ đồng từ thị trường.

Điểm đáng lưu ý là lãi suất tín phiếu phát hành bởi NHNN có xu hướng giảm liên tiếp trong suốt 1 năm qua. Cụ thể, xét riêng tín phiếu kỳ hạn 14 ngày thì tại thời điểm 8-2015 lãi suất phát hành là 3,4%, đến tháng 6-2016 chỉ còn là 2.75%/năm, đến thời điểm 12-8 chỉ còn 1,3% và đến 22-8 giảm còn 0,59% (mức thấp nhất trong lịch sử). Tính đến đầu tuần 13 này, lượng tín phiếu của NHNN đang lưu hành đã lên tới gần 54.000 tỉ đồng, đồng nghĩa với từng đó tiền đang tạm thời được NHNN “giữ hộ” trong ngắn hạn.

Diễn biến trên cho thấy, đây có thể là dấu hiệu thanh khoản của hệ thống ngân hàng đang dồi dào, các ngân hàng đang dư thừa một lượng vốn lớn và không có nhu cầu vay mượn của nhau để bù đắp thanh khoản ngắn hạn. Đồng thời, NHNN thông qua công cụ tín phiếu đang hút lượng tiền dư thừa trong hệ thống ngân hàng. Nhiều khả năng, lượng tiền mà NHNN hút ròng đang được sử dụng để tăng dự trữ ngoại hối. Bởi theo thống kê của NHNN, từ cuối tháng 6 đến nay, NHNN vẫn đều đặn mua vào ngoại tệ, cải thiện dự trữ ngoại hối, giữ ổn định tỷ giá và thị trường.

Lý do chưa thể giảm

Thực tế, không chỉ thời điểm này mà không ít lần trong quá khứ, khi mà tiền trên thị trường liên ngân hàng dư thừa, lãi suất trên thị trường này liên tục giảm thì vốn rẻ vẫn không chảy được tới các doanh nghiệp và dân cư đang khát vốn. Lý giải về việc này, nhiều ngân hàng cho biết, họ chỉ dư thừa vốn trong ngắn hạn và thông thường trạng thái này sẽ tồn tại không dài. Do đó, chính sách lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp và dân cư hầu như ít có thay đổi, đặc biệt đối các khoản vay thường trung và dài hạn.

Để tận dụng nguồn vốn “dư thừa” này trong ngắn hạn, trong một số trường hợp nhất định, ngân hàng tài trợ sẽ cho vay ra dưới hình thức tài trợ vốn lưu động kỳ hạn ngắn (dưới 1 tháng) với mức lãi suất ưu đãi, phù hợp hơn với trạng thái dư tiền của mình và diễn biến lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Mặc dù lãi suất cao tuy nhiên việc cấp vốn lưu động cho doanh nghiệp trong kỳ hạn ngắn không thể hấp thu hết hàng chục nghìn tỉ và chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro, đặc biệt do kỳ hạn ngắn thì rủi ro về dòng tiền trả nợ của doanh nghiệp là rất cao.

Trường hợp thứ hai, các ngân hàng sẽ tìm kiếm nơi “gửi tiền” an toàn và có lợi nhuận cao hơn kênh liên ngân hàng thông qua giao dịch với NHNN bằng cách mua tín phiếu ngắn hạn. Kênh giao dịch này phù hợp với trạng thái dư thừa vốn tạm thời trong ngắn hạn của các ngân hàng, đồng thời hầu như không có rủi ro (cả về giá trị lẫn kỳ hạn), do vậy, các ngân hàng ưa thích hơn so với việc cấp vốn lưu động ngắn hạn cho các doanh nghiệp.

Thực tế, trong tháng 8 vừa qua, hoạt động mua tín phiếu của NHNN khá sôi động và hầu hết các đợt phát hành tín phiếu đều được các NHTM mua hết sạch đã khẳng định xu hướng trên. Tuy nhiên, để tối đa hóa lợi nhuận, một số NHTM đã phân loại, cấp vốn lưu động ngắn hạn cho một số đối tượng khách hàng tốt, khách hàng lớn với mức lãi suất ưu đãi hơn trước. Một số trường hợp cá biệt còn được áp dụng mức lãi suất dưới 5%/năm. Tuy vậy, đây là cá biệt và được dự đoán sẽ không kéo dài.

Để có mức lãi suất ưu đãi như vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải có kế hoạch khả thi, dòng tiền ngắn hạn ổn định, rõ ràng. Ngoài ra, ngân hàng phải có lãi suất huy động bình quân tương đối thấp (thấp hơn 0,5-1% so với lãi suất cho vay) để ngân hàng bù đắp được chi phí. Đồng thời, yếu tố vĩ mô khác là tỷ lệ lạm phát danh nghĩa phải duy trì ở mức thấp (khoảng 3,5%). Vì vậy, với tỷ lệ lạm phát được dự báo trong năm nay tăng lên ít nhất là 5% thì mức lãi suất cho vay ra như trên khó có thể kéo dài lâu được.

Thực tế, lãi suất cho vay ra của các ngân hàng hiện vẫn duy trì ở mức 6-11% tùy từng lĩnh vực và kỳ hạn cụ thể. Trong khi lãi suất huy động đang dao động 0,1-6,9%. Thế nhưng, nợ xấu cao và chi phí vận hành lớn cũng là những nguyên nhân cản trở việc hạ lãi suất cho vay ra của các NHTM. Hơn nữa, thời điểm cuối năm nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp thường khá cao, đặc biệt là nguồn vốn trung dài hạn. Nắm bắt được vấn đề này, nhiều NHTM đang rục rịch tăng lãi suất huy động để thu hút nguồn vốn trung và dài hạn. Đồng thời, những quy định của NHNN giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn xuống còn 50% cũng khiến cho nhiều ngân hàng thiếu nguồn vốn trung dài hạn để cho vay. Do vậy, khó có hy vọng các NHTM giảm lãi suất cho vay ra nền kinh tế, nhất là vốn trung dài hạn.

Như vậy, mặc dù lãi suất liên ngân hàng cũng như tín phiếu NHNN đều thấp kỷ lục, các NHTM đang dư thừa vốn, nhưng với mức dự báo lạm phát ít nhất là 5% trong năm nay, cộng với việc tín dụng sẽ được đẩy mạnh thì trạng thái nguồn vốn dư thừa ở các ngân hàng sẽ không còn trong những tháng tới. Đây cũng là thời điểm các doanh nghiệp cần vốn để phục vụ nhu cầu xuất nhập khẩu cho các đơn hàng cuối năm trong khi nợ xấu và chi phí cao khiến các NHTM khó lòng giảm thêm được lãi suất. Chính vì thế, trong ngắn hạn, lãi suất thị trường liên ngân hàng giảm tạm thời không có nhiều tác động làm giảm lãi suất cho vay ra nền kinh tế.

Thành Trung

Năng lượng Mới 556

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 84,800
AVPL/SJC HCM 82,600 84,800
AVPL/SJC ĐN 82,600 84,800
Nguyên liệu 9999 - HN 74,500 75,450
Nguyên liệu 999 - HN 74,400 75,350
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 84,800
Cập nhật: 27/04/2024 04:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 75.600
TPHCM - SJC 83.000 85.200
Hà Nội - PNJ 73.800 75.600
Hà Nội - SJC 83.000 85.200
Đà Nẵng - PNJ 73.800 75.600
Đà Nẵng - SJC 83.000 85.200
Miền Tây - PNJ 73.800 75.600
Miền Tây - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 75.600
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 74.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 56.030
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 43.730
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 31.140
Cập nhật: 27/04/2024 04:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 7,590
Trang sức 99.9 7,375 7,580
NL 99.99 7,380
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 7,620
Miếng SJC Thái Bình 8,320 8,520
Miếng SJC Nghệ An 8,320 8,520
Miếng SJC Hà Nội 8,320 8,520
Cập nhật: 27/04/2024 04:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 85,200
SJC 5c 83,000 85,220
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 85,230
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 75,500
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 75,600
Nữ Trang 99.99% 73,700 74,700
Nữ Trang 99% 71,960 73,960
Nữ Trang 68% 48,451 50,951
Nữ Trang 41.7% 28,803 31,303
Cập nhật: 27/04/2024 04:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 27/04/2024 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,233 16,253 16,853
CAD 18,228 18,238 18,938
CHF 27,206 27,226 28,176
CNY - 3,427 3,567
DKK - 3,544 3,714
EUR #26,239 26,449 27,739
GBP 31,095 31,105 32,275
HKD 3,107 3,117 3,312
JPY 156.48 156.63 166.18
KRW 16.2 16.4 20.2
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,217 2,337
NZD 14,797 14,807 15,387
SEK - 2,241 2,376
SGD 18,043 18,053 18,853
THB 632.05 672.05 700.05
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 27/04/2024 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 27/04/2024 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 27/04/2024 04:00