Bài toán năng lượng Việt Nam:

Những nút thắt… vĩ mô (Kỳ 1)

07:00 | 08/11/2012

900 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) - Bài toán cung cấp đủ năng lượng cho nền kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia trong những năm tới là một bài toán tầm “quốc gia đại sự” và muốn giải được, đòi hỏi các cấp cao nhất phải thay đổi không chỉ biện pháp mà cả tư duy chiến lược.

Kỳ 1: Thực trạng của "tam giác" năng lượng

Chúng ta đều biết, Nhà nước ta trước nhu cầu gia tăng nhanh chóng về năng lượng trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa của đất nước đã định hướng, ban hành nhiều chính sách vĩ mô, phê duyệt nhiều đề án phát triển, cụ thể hóa những quy hoạch ngành... hướng đến mục tiêu “Năng lượng phải luôn được phát triển trước một bước nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia”.

Nhưng dường như tất cả những điều đó vẫn chưa đủ để đưa ra một lời giải đủ thuyết phục cho bài toán lớn về năng lượng.

Ba ngành được coi là “chân kiềng” năng lượng của Việt Nam hiện nay là than, điện và dầu khí. Cả 3 ngành mũi nhọn này đều đang gặp phải những vấn đề hóc búa không dễ giải.

Trong suốt 15 năm qua, ngành than của Việt Nam chỉ “thâm canh” trên các mỏ hiện có, chủ yếu từ thời bao cấp, chưa hề có đầu tư tái sản xuất mở rộng. Vì vậy, để phát triển, trong thời gian tới ngành than đòi hỏi phải được đầu tư tái sản xuất mở rộng với quy mô lớn chưa từng có.

Ngành năng lượng là ngành kết cấu hạ tầng của toàn bộ nền kinh tế quốc dân

Ngành than đang “khát” vốn đầu tư ghê gớm. Trong 8 năm tới đây, ngành này nếu muốn thực hiện được nhiệm vụ đáp ứng đủ than cho thị trường trong nước cần khoảng 35.000 tỉ đồng mỗi năm. Điều kiện khai thác tại các mỏ than ngày càng phức tạp, khó khăn, công nghệ lạc hậu, năng suất khai thác thấp, giá thành sản xuất than tăng cao, chất lượng than thấp, khó khăn trong tiêu thụ; các loại phí, thuế áp dụng cho ngành than còn nhiều bất hợp lý... là những sợi dây vô hình “trói” ngành than vào vướng mắc.

Việc cơ giới hóa đồng bộ của ngành than trong những năm qua mới chỉ đạt 2,8%, còn lại là bán cơ giới hóa từng phần và lao động thủ công. Địa chất khai thác than ở Quảng Ninh và vùng Đông Bắc rất phức tạp, không như việc khai thác ở các quốc gia khác trên thế giới. Tỷ lệ than khai thác hầm lò đã, đang tăng lên và khai thác than lộ thiên giảm đi. Chính vì vậy, chi phí cho khai thác các mỏ tăng lên rất cao do tăng thêm chi phí đào lò, chi phí đảm bảo an toàn mỏ, phòng chống cháy nổ, bục khí, bục nước, chi phí bảo vệ môi trường...

Thiếu vốn đầu tư cho các dự án sản xuất điện cũng chính là căn bệnh trầm kha của ngành điện. Hầu hết các nhà máy nhiệt điện dùng nguyên liệu đầu vào là than, khí, dầu DO đều đang lỗ nặng do tỷ suất đầu tư cao, giá nhiên liệu biến động tăng, vì vậy nhiều nơi giá thành sản xuất cao hơn giá bán. Thị trường phát điện cạnh tranh đã được triển khai từ ngày 1/7/2012 sau hơn 7 năm chuẩn bị, tuy nhiên, tham gia thị trường mới có 29 nhà máy điện chào giá trực tiếp trong tổng số 73 nhà máy đang vận hành thương mại trong hệ thống điện quốc gia (còn nhiều nhà máy thủy điện công suất nhỏ hơn 30MW chưa tham gia thị trường phát điện).

Cơ chế thị trường được vận hành theo kiểu chỗ đóng chỗ mở, đặc biệt về giá mua bán điện và cách huy động nguồn đã gây ra nhiều bức xúc. Một số nhà máy nhiệt điện càng chạy càng lỗ nặng, chỉ còn cách chạy cầm chừng 30-40% công suất, hết sức lãng phí nguồn phát của các tổ máy.

Ngành Dầu khí được coi là đầu tàu trong nền kinh tế với đóng góp hàng năm khoảng 30% cho ngân sách Nhà nước. Hiện nay ngoài nhiệm vụ sản xuất kinh doanh còn gánh vác thêm những nhiệm vụ quan trọng khác là trở thành công cụ của Nhà nước trong điều tiết, bình ổn thị trường, bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực, bảo vệ môi trường, đi đầu trong công tác an sinh xã hội và tích cực tham gia bảo vệ chủ quyền biển đảo quốc gia. Mặc dù những năm gần đây sản xuất kinh doanh của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam liên tục tăng cao, tăng nhanh, tuy nhiên phía trước cũng không ít khó khăn.

Trong bối cảnh suy thoái kinh tế thế giới chưa phục hồi tiếp tục ảnh hưởng đến Việt Nam, việc thu xếp vốn cho các dự án dầu khí gặp nhiều khó khăn. Nguồn tài nguyên dầu khí, đặc biệt các mỏ lớn, ngày càng cạn kiệt và khan hiếm, phải tìm kiếm thăm dò ở những nơi xa hơn, nước sâu, điều kiện địa chất phức tạp hơn, do đó chi phí tốn kém hơn và nhu cầu vốn đầu tư cũng lớn hơn rất nhiều.

Các dự án của ngành Dầu khí hầu hết đều rất phức tạp, vốn đầu tư lớn, công nghệ thiết bị, vật tư, nguyên liệu nhập khẩu nhiều, chịu sự chi phối lớn của biến động, chênh lệch tỷ giá đồng ngoại tệ; cơ chế kinh doanh xăng dầu không ổn định, sự điều tiết của chính sách thuế nhập khẩu xăng dầu, biến động của giá dầu thô đưa vào chế biến và giá sản phẩm đầu ra cũng là những nguyên nhân ảnh hưởng sâu sắc đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành; những dự án đầu tư ra nước ngoài thì phải cạnh tranh quốc tế hết sức quyết liệt. Công tác triển khai các dự án tìm kiếm thăm dò ở những vùng nước sâu, xa bờ thời gian gần đây bị ảnh hưởng do tình hình diễn biến phức tạp trên Biển Đông.

Về sản xuất và cung cấp điện, mặc dù năm nay các nhà máy điện của ngành luôn duy trì ổn định độ khả dụng và vận hành an toàn theo điều động của EVN/A0 nhưng do điều kiện thủy văn thuận lợi, nhu cầu của hệ thống phụ tải tăng thấp nên EVN/A0 không huy động tối đa công suất... Điện sản xuất ra không được tiêu thụ hết hoặc tiêu thụ với giá thấp hơn giá thành mà vẫn không thu được tiền từ EVN trong khi khoản phải trả lãi vốn vay để đầu tư rất lớn, các nhà máy điện của Petrovietnam lâm vào cảnh càng sản xuất càng bị áp lực tài chính.

Thủ tục pháp lý cho phép đầu tư là điều kiện tiên quyết cho việc triển khai các dự án dầu khí, nhưng khi thực hiện thì nảy sinh những vấn đề chưa thống nhất về cơ chế, chính sách giữa các cấp, các ngành, các địa phương và chủ đầu tư.

Đến nay, cả 3 “trụ cột” của năng lượng Việt Nam đều chưa có được nền móng vững chắc và các đỉnh của “tam giác” này chưa được kết nối bằng một chính sách rõ ràng, bài bản.

Với nhu cầu năng lượng dự báo sẽ tăng gấp 3 lần trong vòng 10 năm tới (12% mỗi năm), Việt Nam sẽ phải đối mặt với nguy cơ thiếu hụt nguồn năng lượng từ giai đoạn 2015-2020 trở đi, chuyển từ nước xuất khẩu năng lượng trở thành nước nhập khẩu năng lượng và chịu sự tác động thay đổi của thị trường quốc tế. Dự báo nhu cầu năng lượng Việt Nam năm 2020 là 80,9 triệu tấn dầu quy đổi - TOE (tonne of oil equivalent), năm 2025 là 103,1 triệu TOE và năm 2030 là 131,16 triệu TOE.


(Xem tiếp kỳ sau: Chìa khóa lời giải nằm trong tay... Nhà nước)

Tiến Dũng

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 84,800
AVPL/SJC HCM 82,600 84,800
AVPL/SJC ĐN 82,600 84,800
Nguyên liệu 9999 - HN 74,500 75,450
Nguyên liệu 999 - HN 74,400 75,350
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 84,800
Cập nhật: 27/04/2024 09:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 75.600
TPHCM - SJC 83.000 85.200
Hà Nội - PNJ 73.800 75.600
Hà Nội - SJC 83.000 85.200
Đà Nẵng - PNJ 73.800 75.600
Đà Nẵng - SJC 83.000 85.200
Miền Tây - PNJ 73.800 75.600
Miền Tây - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 75.600
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 74.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 56.030
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 43.730
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 31.140
Cập nhật: 27/04/2024 09:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 7,590
Trang sức 99.9 7,375 7,580
NL 99.99 7,380
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 7,620
Miếng SJC Thái Bình 8,320 8,520
Miếng SJC Nghệ An 8,320 8,520
Miếng SJC Hà Nội 8,320 8,520
Cập nhật: 27/04/2024 09:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 85,200
SJC 5c 83,000 85,220
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 85,230
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 75,500
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 75,600
Nữ Trang 99.99% 73,700 74,700
Nữ Trang 99% 71,960 73,960
Nữ Trang 68% 48,451 50,951
Nữ Trang 41.7% 28,803 31,303
Cập nhật: 27/04/2024 09:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 27/04/2024 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,233 16,253 16,853
CAD 18,228 18,238 18,938
CHF 27,206 27,226 28,176
CNY - 3,427 3,567
DKK - 3,544 3,714
EUR #26,239 26,449 27,739
GBP 31,095 31,105 32,275
HKD 3,107 3,117 3,312
JPY 156.48 156.63 166.18
KRW 16.2 16.4 20.2
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,217 2,337
NZD 14,797 14,807 15,387
SEK - 2,241 2,376
SGD 18,043 18,053 18,853
THB 632.05 672.05 700.05
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 27/04/2024 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 27/04/2024 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 27/04/2024 09:00