Ông Nguyễn Chí Dũng: Tăng khai thác dầu chỉ là giải pháp tình thế

18:05 | 29/05/2017

671 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Bộ trưởng Kế hoạch & Đầu tư khẳng định Chính phủ không xem khai thác tài nguyên là lời giải bền vững cho phát triển, song đẩy mạnh sản xuất dầu thô là cơ hội tốt nhất để đảm bảo tăng GDP 6,7% năm nay.

Báo cáo trước Quốc hội tại kỳ họp khai mạc cuối tháng 5 này, Chính phủ khẳng định sẽ nỗ lực hết sức để hoàn thành mục tiêu tăng trưởng 6,7% năm nay, dù bối cảnh kinh tế gặp nhiều khó khăn. Bộ trưởng Kế hoạch & Đầu tư - Nguyễn Chí Dũng vừa có cuộc trao đổi với báo chí để làm rõ mục tiêu cũng như một số giải pháp thực hiện kế hoạch này.

- Đặt mục tiêu dài hạn là ổn định vĩ mô và đổi mới mô hình tăng trưởng, tại sao Chính phủ giữ mục tiêu và tìm giải pháp đẩy tăng trưởng năm nay ở mức 6,7%, trong khi thực tế tốc độ tăng GDP quý I chỉ là 5,1%?

- 2017 là năm thứ hai trong kế hoạch phát triển 5 năm của đất nước. Đây là năm quan trọng và được đánh giá là bản lề đối với việc thực hiện kế hoạch. Trước đó, tăng trưởng trong năm đầu tiên 2016 chỉ đạt 6,21%, không đạt mục tiêu đề ra. Nếu năm nay tiếp tục không đạt, kết quả sẽ ảnh hưởng kế hoạch phát triển kinh tế chung.

Xét về khía cạnh hội nhập quốc tế, nếu chúng ta không phát triển nhanh hơn, tất nhiên phải gắn với bền vững, thì Việt Nam sẽ tụt hậu. Trên một số phương diện, thực tế Việt Nam hiện đã ở vị thế thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực.

ong nguyen chi dung tang khai thac dau chi la giai phap tinh the
Bộ trưởng Kế hoạch & Đầu tư cho rằng, mục tiêu tăng trưởng 6,7% là khó nhưng không phải là không thể thực hiện nếu có những giải pháp đúng đắn, đồng bộ.

Bên cạnh đó, việc giữ tốc độ tăng trưởng cũng là mục tiêu quan trọng, mang nhiều ý nghĩa. Kinh tế tăng trưởng tốt sẽ đem lại nguồn lực cho đầu tư phát triển, việc làm, chi tiêu cho ngân sách, cho tới ổn định xã hội. Bối cảnh trong nước và trên thế giới cũng có nhiều tín hiệu tốt ủng hộ quyết định này của Chính phủ.

Các dự báo của các tổ chức quốc tế gần đây đánh giá triển vọng kinh tế thế giới trong ngắn hạn là rất tốt. Với một nước hội nhập như Việt Nam thì điều này sẽ mang lại tác động tích cực. Trong khi tình hình trong nước đối với một số lĩnh vực đã có sự khởi sắc, đặc biệt là khu vực nông - lâm - ngư nghiệp với thời tiết ổn định, dịch bệnh đã giảm mạnh.

Mục tiêu tăng trưởng 6,7% là khó, thách thức nhưng nếu có giải pháp đúng đắn, đồng bộ và triển khai tích cực thì có thể làm được. Ở chiều ngược lại thì bản thân nền kinh tế cũng phải thực sự cố gắng. Nói khó nhưng không phải không có cơ sở thực hiện.

- Một trong những giải pháp được đưa ra trước mắt là tăng lượng dầu khai thác thêm 1 triệu tấn. Theo Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, việc này cần được xem xét thận trọng. Ông nghĩ sao?

- Theo tính toán hiện nay thì một triệu tấn dầu khai thác thêm sẽ đóng góp 0,25% vào tăng trưởng kinh tế. Năm 2016, Việt Nam khai thác dầu thô đạt 16 triệu tấn, tuy nhiên kế hoạch khai thác năm 2017 được xây dựng chỉ đạt 12,28 triệu tấn. Trước khả năng còn có thể khai thác thêm và giá dầu đang phục hồi thì đây là cơ hội để ngành khai khoáng đóng góp vào tăng trưởng.

Gần đây, khai khoáng sụt giảm mạnh chủ yếu do dầu thô. Không phải do ngành không hoàn thành kế hoạch, mà là chủ động xin giảm khi thấy biến động giá trên thị trường thế giới đang theo xu hướng tiêu cực. Chính phủ cũng đã xác định việc khai thác tài nguyên sẽ không phải lời giải bền vững cho tăng trưởng. Việc gia tăng lượng khai thác dầu hiện tại chỉ là giải pháp tình thế mang tính ngắn hạn, khi những động lực tăng trưởng mới chưa hình thành rõ ràng.

Quan điểm nhất quán của Chính phủ là không tăng trưởng bằng mọi giá, không đánh đổi với ổn định, phát triển bền vững. Thay vào đó, điều cần làm là cơ cấu lại động lực phát triển và tìm những biện pháp bền vững hơn.

- Vậy ngoài việc khai thác thêm dầu, Chính phủ dự kiến có giải pháp nào khác?

- Mục tiêu của Chính phủ trong dài hạn là duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tập trung đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng từ đó nâng cao năng suất lao động và tính hiệu quả trong nền kinh tế. Về ngắn hạn, điểm quan trọng nhất là tháo gỡ những khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là giảm chi phí và việc tiếp cận các nguồn lực.

Trên thực tế, số doanh nghiệp đăng ký mới và vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam thời gian trước là rất lớn. Lúc này là thời điểm để đưa ra các biện pháp tháo gỡ khó khăn nhằm chuyển hóa số vốn đăng ký này thành vốn thực hiện, đóng góp vào nền kinh tế.

Việc giảm chi phí đã được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhắc đến như một vấn đề quan trọng cần làm ngay trong Hội nghị với cộng đồng doanh nghiệp mới đây. Nếu chi phí vẫn cao như hiện tại, doanh nghiệp Việt Nam sẽ rất khó tạo ra lợi thế cạnh tranh khi hội nhập, khó có thể chen chân vào các chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng đang hình thành.

Năng suất lao động thấp, giá thành cao vốn là thực trạng lâu nay nhưng rất khó để đảo ngược. Thậm chí giá hàng hóa bán thành phẩm của doanh nghiệp nước ngoài còn rẻ hơn nguyên liệu đầu vào sơ cấp tại Việt Nam. Đây là những rào cản bắt buộc phải tháo gỡ.

- Để thúc đẩy kinh tế, Chính phủ dự kiến đề xuất với Quốc hội cơ chế xây dựng những đơn vị hành chính đặc biệt tại Việt Nam. Ông có thể nói rõ hơn về đề xuất này?

- Đây là một giải pháp thu hút đầu tư đang được Chính phủ giao Bộ Kế hoạch & Đầu tư xây dựng thành luật và sẽ được trình Quốc hội trong kỳ họp cuối năm nay.

Trước đây, Trung Quốc từng thành công với những hình thức đặc biệt như đặc khu kinh tế, khu kinh tế mới và khu thương mại tự do... Nhưng đến nay, khi đặc khu kinh tế đã làm hết vai trò thì khu thương mại tự do mới là hình thức thu hút được vốn đầu tư nhiều nhất. Vậy nên Bộ đang cần nghiên cứu để đưa ra một hình thức tối ưu nhất, liệu Việt Nam sẽ đi theo tiến trình từ đầu khi xây dựng đặc khu kinh tế hay sẽ theo mô hình đang phát triển mạnh như khu thương mại tự do.

Hiện tại công tác xây dựng đang gấp rút được thực hiện. Bộ Kế hoạch & Đầu tư cũng đã mời các chuyên gia kinh tế, chuyên gia Luật trong và ngoài nước để xin ý kiến. Đồng thời, chúng tôi cũng cử nhiều đoàn làm việc sang các nước khác để tham khảo những hình thái đã có, từ đó tìm ra một mô hình tối ưu nhất. Về cơ bản, đây sẽ là một bước mới để thu hút đầu tư vào Việt Nam.

- Tháp tùng Thủ tướng thăm Mỹ cuối tháng 5 này, ông nhìn nhận như thế nào về cơ hội mở rộng hợp tác kinh tế của Việt Nam với nền kinh tế lớn nhất thế giới ?

- Lãnh đạo Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á nhận được lời mời của Tổng thống Mỹ - Donald Trump. Điều này cho thấy đây sẽ là chuyến thăm có ý nghĩa và có khả năng để mở ra nhiều cơ hội đầu tư. Hiện đã có khoảng 80-90 doanh nghiệp sẽ cùng tháp tùng Thủ tướng sang Mỹ.

Đây cũng sẽ là cơ hội tốt để nước ta xây dựng mối quan hệ với cường quốc này khi chính sách thương mại ra bên ngoài của Mỹ dưới thời Tổng thống Donald Trump chưa được định hình rõ ràng, và mang thiên hướng bảo hộ nhiều hơn là hội nhập.

VnExpress

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC HCM 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC ĐN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Nguyên liệu 9999 - HN 74,500 ▲1250K 75,450 ▲1250K
Nguyên liệu 999 - HN 74,400 ▲1250K 75,350 ▲1250K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Cập nhật: 26/04/2024 23:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
TPHCM - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Hà Nội - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Hà Nội - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Đà Nẵng - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Đà Nẵng - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Miền Tây - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Miền Tây - SJC 83.000 ▲1000K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 ▲800K 74.500 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 ▲600K 56.030 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 ▲460K 43.730 ▲460K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 ▲330K 31.140 ▲330K
Cập nhật: 26/04/2024 23:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 ▲80K 7,590 ▲80K
Trang sức 99.9 7,375 ▲80K 7,580 ▲80K
NL 99.99 7,380 ▲80K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
Miếng SJC Thái Bình 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Miếng SJC Nghệ An 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Miếng SJC Hà Nội 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Cập nhật: 26/04/2024 23:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 ▲1000K 85,200 ▲900K
SJC 5c 83,000 ▲1000K 85,220 ▲900K
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 ▲1000K 85,230 ▲900K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 ▲700K 75,500 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 ▲700K 75,600 ▲700K
Nữ Trang 99.99% 73,700 ▲800K 74,700 ▲700K
Nữ Trang 99% 71,960 ▲693K 73,960 ▲693K
Nữ Trang 68% 48,451 ▲476K 50,951 ▲476K
Nữ Trang 41.7% 28,803 ▲292K 31,303 ▲292K
Cập nhật: 26/04/2024 23:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 26/04/2024 23:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,224 16,244 16,844
CAD 18,216 18,226 18,926
CHF 27,201 27,221 28,171
CNY - 3,427 3,567
DKK - 3,543 3,713
EUR #26,231 26,441 27,731
GBP 31,064 31,074 32,244
HKD 3,107 3,117 3,312
JPY 156.54 156.69 166.24
KRW 16.2 16.4 20.2
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,218 2,338
NZD 14,792 14,802 15,382
SEK - 2,240 2,375
SGD 18,043 18,053 18,853
THB 632.24 672.24 700.24
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 26/04/2024 23:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 26/04/2024 23:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 26/04/2024 23:45