Dệt may Việt nam:

Con đường nào vượt qua “cửa tử” (Kỳ 1)

07:00 | 16/01/2016

1,680 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Thực tế những năm qua, ngành dệt may phần nào đã cho thấy sự “ưu ái” của Chính phủ dành cho mình. Dệt may đã trở thành một trong những ngành hàng chiếm tỉ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

Với Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), dệt may Việt Nam đang đứng trước “cơ hội vàng” để phát triển tại các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada… Nhưng để tận dụng được lợi thế này, các sản phẩm dệt may phải chứng minh được nguồn gốc nguyên, phụ liệu đến từ chính các nước TPP. Lần theo chuỗi giá trị của dệt may Việt Nam thì phát hiện ra từng mắt xích vừa yếu lại vừa thiếu, đặc biệt, việc phát triển nguồn nguyên, phụ liệu - mắt xích được coi là gốc của ngành dệt may - lại đang là con số 0 tròn trĩnh. Và đây chính là điểm “chết”, là “cửa tử” đối với ngành dệt may Việt Nam.

Báo Năng lượng Mới xin gửi tới độc giả loạt bài về ngành dệt may Việt: Ứng phó thế nào khi gia nhập TPP?

Kỳ I: Lấy công làm lãi

Mơ hồ chuỗi giá trị dệt may

Trong số các ngành, các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh của nền kinh tế nước ta, có thể thấy, dệt may là một trong số ít lĩnh vực của Việt Nam có lợi thế so sánh, cạnh tranh so với các quốc gia khác. Vậy nên, ngay từ những ngày đầu tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, dệt may đã được Chính phủ xác định là lĩnh vực ưu tiên trong việc đàm phán các Hiệp định Thương mại tự do như TPP, Hiệp định Thương mại Việt Nam - EU và Việt Nam - Liên minh Hải quan Nga - Belarus - Kazakhstan…

Tuy nhiên, khi nền kinh tế ngày càng hội nhập, mức độ hội nhập ngày càng cao và đồng nghĩa với đó là những yêu cầu ngày càng khắt khe đối với các ngành, các lĩnh vực sản xuất thì ngành dệt may Việt Nam lại bộc lộ rất nhiều yếu kém, thậm chí tỏ ra thụ động trước những cơ hội mà các hiệp định thương mại tự do mang lại. Điều này thể hiện rõ nhất ở sự yếu kém trong khả năng “tự cung, tự cấp, tự chủ” trong chuỗi cung ứng dệt may. Các doanh nghiệp hầu như vẫn mạnh ai đấy làm để rồi đến bây giờ, sau gần 10 năm thực hiện “Chiến lược phát triển ngành dệt may”, chuỗi cung ứng sợi - dệt - may vẫn tồn tại những lỗ hổng tại những mắt xích chủ chốt nhất.

con duong nao vuot qua cua tu ky 1
Máy dệt kim tự động thế hệ mới nhất được trưng bày giới thiệu triển lãm VTG tại Việt Nam

Những năm đầu thế kỷ XX, Gerefi - một trong những chuyên gia kinh tế hàng đầu nghiên cứu về lĩnh vực dệt may của Đại học Duke Durham (Hoa Kỳ) - đã đưa ra khái niệm về chuỗi giá trị hàng may mặc. Nghiên cứu này của Garefi sau đó đã được tất cả các nước, các tập đoàn kinh tế hoạt động trong lĩnh vực dệt may công nhận. Trong đó, Garefi xác định chuỗi giá trị dệt may gồm 5 phân khúc chính là nguyên liệu thô, nguyên phụ liệu, sản xuất, xuất khẩu và tiếp thị bán hàng. Trong đó, chuỗi cung ứng sợi - dệt - may là cốt lõi, là trung tâm của chuỗi giá trị, là nền tảng để ngành dệt may. Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trên thế giới đã dựa theo nghiên cứu của Garafi về chuỗi cung ứng để từng bước triển khai theo cả 5 phân khúc. Và những tập đoàn, tổng công ty lớn như Tập đoàn Dệt may Việt Nam, Dệt Phong Phú, Tổng Công ty Dệt may Hà Nội (Hanosimex), Dệt sợi Đông Quang… đã bước đầu xây dựng, hình thành chuỗi cung ứng nguồn nguyên, phụ liệu cho ngành dệt may. Sự phát triển này đã góp phần đưa dệt may trở thành một trong những lĩnh vực xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam với giá trị ước tính lên đến hàng chục tỉ USD mỗi năm.

Ngành dệt may ít nhiều đã để lại dấu ấn trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước, đặc biệt là trong mấy năm gần đây khi kinh tế trong nước và quốc tế có nhiều biến động, khó khăn, dệt may vẫn có những bước tăng trưởng nhất định. Nhưng như đã đề cập ở trên, càng hội nhập, càng xâm nhập vào những thị trường đòi hỏi công nghệ, tiêu chuẩn kỹ thuật cao thì ngành dệt may Việt Nam lại bộc lộ nhiều vấn đề. Dệt may xuất khẩu nhiều nhưng giá trị lợi nhuận trong toàn chuỗi cung ứng của ngành dệt may lại rất thấp và chủ yếu có được nhờ... gia công. Điều này cũng được thể hiện ở con số thống kê của Hiệp hội Dệt may Việt Nam, trong năm 2014, dệt may xuất khẩu được 24,5 tỉ USD nhưng có tới 70% doanh thu xuất khẩu có được bằng phương thức gia công, tức là chúng ta nhập nguyên phụ liệu về “lắp ráp” rồi xuất khẩu. Xuất khẩu theo phương thức tự lo nguyên phụ liệu, xuất khẩu sản phẩm cho đối tác chỉ chiếm 20%.

Và đáng ngại hơn, theo tìm hiểu của chúng tôi  thì có tới 90% nguyên, phụ liệu phục vụ dệt may xuất khẩu cũng như cung ứng trong nước là nhập khẩu từ nước ngoài. Nói một cách đơn giản là chuỗi dệt may của nước ta bị đứt, gãy ở ngay những khâu quan trọng nhất, có giá trị và lợi nhuận cao nhất. Cụ thể, về các loại nguyên liệu chính như bông, xơ (tự nhiên, nhân tạo) chúng ta mới chỉ đáp ứng khoảng 10% nhu cầu kéo sợi, có nghĩa là phải nhập khẩu đến 90% nguyên liệu. Sau đó, các doanh nghiệp kéo sợi gia công thành các loại sợi với tỷ lệ pha trộn khác nhau theo đơn đặt hàng của khách hàng nước ngoài hoặc trong nước.

Đến khâu thứ 3 là dệt, nhuộm thì hầu hết các loại vải từ khá đến cao cấp đều phải đưa sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc để dệt và nhuộm màu. Đặc biệt là các loại sợi có pha trộn xơ tổng hợp bởi trình độ, công nghệ của Việt Nam chưa đủ khả năng nhuộm màu. Phần còn lại là vải trắng, vải thấp cấp không yêu cầu về màu cao (phục vụ y tế, quốc phòng, hàng chợ) được dệt và nhuộm tại Việt Nam và có chăng, chỉ có một lượng nhỏ hàng dệt may được sản xuất từ vải dệt trong nước được xuất sang các nước như Lào, Campuchia… Vải giá trị cao lại được các doanh nghiệp may nhập khẩu về để cắt, may, hoàn thiện sản phẩm kèm theo là 100% các phụ liệu may như chỉ, cúc, mác, nhãn mạ kim…

Cuối cùng các sản phẩm may mặc mà bàn tay người Việt thực hiện hơn 80% công đoạn thì người Việt cũng không được sử dụng mà buộc phải xuất khẩu sang các nước khác. Đặc biệt là các doanh nghiệp lớn của Việt Nam như Vinatex, Hanosimex, Phong Phú… cũng đang phải theo đúng cái chuỗi luẩn quẩn này.

con duong nao vuot qua cua tu ky 1
Công ty TNHH Sợi dệt Vĩnh Phúc

PGS.TS Hà Văn Hội - Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế (Trường đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội) khi nhìn nhận về sự thiếu liên kết sợi - dệt nhuộm - may đã nhấn mạnh: “Cho đến nay, ngành dệt may của Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi tình trạng bị phụ thuộc khá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài. Các nhà sản xuất hàng dệt may của Việt Nam hiện đang nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan hoặc Hongkong… với giá trị nguyên phụ liệu nhập khẩu thường chiếm gần 70-80% so với trị giá kim ngạch xuất khẩu. Tuy được chú trọng đầu tư về công nghệ, dây chuyền sản xuất hiện đại hơn nhưng nguyên liệu sản xuất trong nước hoặc không đủ cho nhu cầu sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu hoặc không đáp ứng được tiêu chuẩn của khách hàng… Vì vậy, giá trị thực tế mà ngành may mặc thu được không hề cao so với con số kim ngạch xuất khẩu”.

Trong 5 phân khúc chính của chuỗi giá trị dệt may toàn cầu gồm sản xuất nguyên liệu thô, sản xuất nguyên phụ liệu, may, xuất khẩu và phân phối bán lẻ thì ngành dệt may Việt Nam vẫn chủ yếu hoạt động ở phân khúc may - phân khúc tạo ra giá trị gia tăng thấp nhất. Nhìn lại quá trình phát triển của chuỗi giá trị ngành dệt may có thể thấy sự phát triển thiếu đồng bộ giữa các phân khúc trong toàn bộ chuỗi cung ứng, đặc biệt là sự yếu kém trong liên kết sợi - dệt, nhuộm - may chính là nguyên nhân chính làm cho ngành dệt may Việt Nam không thể chuyển dịch sang các phân khúc có giá trị gia tăng cao.

Để làm rõ điều này, PGS.TS Hà Văn Hội đã đưa ra dẫn chứng như sau: Trong tất cả các khâu của chuỗi giá trị dệt may Việt Nam thì may là ngành có sự phát triển rõ rệt nhất, giá trị xuất khẩu năm 2010 là 10 tỉ USD thì đến năm 2014 đã lên tới 20,65 tỉ USD… Trong khi đó ngành may có những bước phát triển tương đối dài thì ngành dệt vải, in nhuộm và hoàn tất vẫn chưa phát triển nhiều. Như năm 2009, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may là 9 tỉ USD thì giá trị xuất khẩu vải chỉ đạt chưa đến 430 triệu USD…

Khi chúng tôi tìm gặp ông Lê Hồng Quân - Phó tổng giám đốc Phú Bài, Giám đốc Nhà máy sợi Phú Xuyên thì càng được khẳng định thêm về sự thiếu rõ nét của chuỗi dệt may Việt. Theo đó, Phú Bài có 7 nhà máy xe sợi với gần 18 vạn cọc, công suất khoảng 36,4 ngàn tấn sợi/năm. Sản phẩm sợi của Phú Bài cũng rất phong phú, từ sợi 100% cotton, sợi pha CVC, Polyester… dùng cho dệt kim và dệt thoi. Và để đáp ứng nhu cầu này, mỗi năm Phú Bài phải nhập khẩu hàng chục ngàn tấn bông, xơ polyester, nhưng sợi Phú Bài làm ra chủ yếu là xuất khẩu sang Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Sau đó, để làm hàng may mặc, Phú Bài lại nhập vải từ Trung Quốc, Nhật Bản về để gia công theo các đơn đặt hàng.

Số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, trước năm 2013, cả nước mới có 3 khu công nghiệp (KCN) dệt may được thành lập với tổng diện tích 331ha, tại Đồng Nai (Nhơn Trạch, 184ha); Hưng Yên (Phố Nối, 121ha); Bình Dương (Bình An, 26ha), thì chỉ từ đầu năm 2014 tới nay, đã có thêm 5 KCN dệt may mới, với tổng diện tích 1.900ha. Đó là các KCN Dệt may Rạng Đông (Nam Định), quy mô 600 ha; Texhong Hải Hà (Quảng Ninh), 660ha; Tam Thăng (Quảng Nam), 175ha; Phân KCN dệt may Hàn Quốc tại KCN Nhơn Trạch 6A, tỉnh Đồng Nai, quy mô 75ha; KCN hỗ trợ ngành dệt may (Thừa Thiên - Huế), 400ha (đang xin chủ trương đầu tư).

TPP là quả đắng!?

Theo Bộ Công Thương, trong những năm gần đây, dệt may là ngành gia công phát triển nhanh nhất. Và ngay sau khi TPP kết thúc vòng đàm phán, đã có rất nhiều những nhận định lạc quan về cơ hội phát triển của ngành dệt may đã được giới chuyên gia, nhà phân tích đưa ra. Cơ hội đó là việc gia tăng lợi nhuận tại thị trường Hoa Kỳ vốn dĩ đang chiếm tới gần một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu của dệt may Việt Nam khi có tới 1.000/1.600 dòng thuế sẽ giảm về 0. Sức cạnh tranh của hàng dệt may vì thế sẽ được cải thiện và đồng nghĩa với đó là khả năng mở rộng thị trường, chiếm lĩnh thị phần dệt may khổng lồ của Hoa Kỳ. Theo đánh giá của Bộ Công Thương, với những lợi thế đó, tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ có thể tăng trưởng gấp đôi trong những năm tới.

Mặc dù ngành dệt may Việt Nam đang đứng trước “cơ hội vàng” nhưng với “thể trạng” hiện tại thì ngành dệt may đang lâm vào cảnh “hữu danh mà vô thực”. Bởi như đã đề cập ở trên, ngành dệt may Việt Nam đang không có “gốc”, phát triển chỉ như “ký sinh”.

Tình trạng này kéo dài nhiều năm khiến dệt may Việt trở thành “con bệnh” mang nhiều mầm bệnh trên người. Đó là vấn đề nội lực yếu khi không đủ tích lũy, nguồn máu tài chính lưu động hạn chế, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, dàn trải còn công nghệ thì thiếu thốn và lạc hậu. Và đặc biệt “nguy hiểm” là sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu, mẫu mã thiết kế từ nước ngoài, trong đó có tới 65% nguyên liệu nhập khẩu đến từ các nước không phải thành viên tham gia TPP.

Trong khi đó, để được hưởng thuế xuất 0%, hàng dệt may Việt Nam phải chứng minh được nguồn gốc xuất xứ từ sợi trở đi, tức là các nguyên phụ liệu sản xuất ra sản phẩm dệt may phải được sản xuất tại các nước TPP. Cái bức tranh ảm đạm về một cơ thể xám xịt ấy chính là bộ mặt thực tế của dệt may Việt Nam. Cũng chính vì vậy mà đợt khảo sát vừa qua của các nước phát triển về dệt may như Ấn Độ, Thái Lan, Đài Loan… họ đã thản nhiên vỗ ngực mà bảo rằng sẽ biến Việt Nam thành sân sau, thành đại công xưởng chuyên đi gia công cho họ.

Ông Lê Hồng Quân - Phó tổng giám đốc Phú Bài, Giám đốc Nhà máy Sợi Phú Xuyên khi đề cập đến câu chuyện này đã thẳng thắn đề cập, những nguyên phụ liệu dệt may, vải dệt trong nước chỉ có thể xuất khẩu sang các nước như Lào, Campuchia hoặc dùng trong nước. Mà tỷ lệ này theo ông Quân là gần như 100%.  Ngoài ra, để có sợi, vải xuất khẩu, chúng ta cũng lại phải nhập xơ, nhập sợi về đề dệt sợi, dệt vải. Dệt vải rồi thì cũng lại xuất thô hoặc để doanh nghiệp nước ngoài nhuộm vì trình độ nhuộm của Việt Nam thấp, không đảm bảo chất lượng, vải hay bị bay hoặc phai màu…

Một điều đáng lo ngại hơn là tốc độ tăng trưởng xuất khẩu dệt may lại đang phụ thuộc vào khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Về điều này, Phó chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam Đặng Phương Dung cho biết, trong số gần 7.000 doanh nghiệp dệt may đang hoạt động ở Việt Nam thì có khoảng 1.600 doanh nghiệp FDI, nhưng tỉ trọng xuất khẩu của những doanh nghiệp này lại lên tới 70% toàn ngành. Xuất phát từ thực tế trên, Báo cáo chỉ số năng lực cạnh tranh 2014 (PCI 2014) đặt câu hỏi: Liệu các doanh nghiệp dệt may có được hưởng cắt giảm thuế quan trong khuôn khổ TPP trong khi ngành này đang phụ thuộc vào nguyên liệu của một số nước khác không phải thành viên TPP không?

Giải đáp mối lo này, bà Đặng Phương Dung chán nản nói: Ngành dệt may Việt Nam đang tham gia chủ yếu “khâu giữa” của chuỗi sản xuất dệt may, tức làm gia công. Còn khâu đầu và cuối (tức nguyên liệu và xuất khẩu sản phẩm) lại chủ yếu nằm trong tay các doanh nghiệp Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan... Đây là thực tế khi chính ở các thị trường xuất khẩu chính của chúng ta là Mỹ và châu Âu thì tỷ lệ nội địa hóa cũng chỉ khoảng 30-40%. Chủ yếu ở nhân công và một số phụ liệu cơ bản như chỉ, thùng, túi, hạt chống ẩm, một số nhãn mác... Để giải quyết vấn đề này là điều không hề đơn giản, đặc biệt là công nghiệp sợi.

“Nếu doanh nghiệp đầu tư 20 triệu USD vào máy móc, công nghệ dệt sợi thì cũng phải mất 20 triệu USD để xử lý môi trường. Chưa kể, để đầu tư máy móc cho 1 công nhân may chỉ khoảng vài chục triệu đồng, thì 1 công nhân sợi cần được đầu tư gấp 5-6 lần... Rõ ràng, khó khăn với dệt may Việt Nam là vô cùng lớn khi đáp ứng quy tắc xuất xứ để được hưởng thuế thấp”.

Chúng tôi nhớ mãi cái sự chua chát của Tổng giám đốc Hanosimex Nguyễn Song Hải khi trao đổi về chuỗi giá trị dệt may của Việt Nam, ông cho rằng nói dệt may Việt không có chuỗi giá trị dệt may thì cũng không đúng mà nói có thì lại càng không chính xác. Các doanh nghiệp có chút tiềm lực trong ngành đã và đang cố gắng xây dựng các mắt xích như bộ phận thiết kế mẫu, vùng nguyên liệu, dệt, nhuộm đến bán sản phẩm. Những hầu hết chỉ là những chuỗi nhỏ lẻ và luôn tiềm ẩn những rủi ro đứt gãy cực lớn.

Chính vì vậy dù thuế xuất hàng dệt may trong các nước tham gia TPP có giảm về 0% thì Việt Nam cũng khó được hưởng lợi gì và bức tranh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam thực tế không phải màu hồng. TPP chỉ là dịp mở rộng, phát triển mở rộng thị trường nhưng ngược lại đây cũng chính là cơ hội để các nhà tư bản nước ngoài xâm nhập mạnh mẽ với ý đồ làm bá chủ một ngành kinh tế chủ lực của người ta. Chính vì vậy, sẽ là không thừa khi dự đoán rằng hội nhập quốc tế đang trở thành nỗi ám ảnh của ngành dệt may Việt Nam khi đứng trước nguy cơ mất thị trường, mất lợi thế cạnh tranh, thậm chí đánh mất chính mình ngay trên sân nhà!

Có thể nói, dệt may Việt chỉ đang “giành” được một phần nhỏ bé trong chuỗi dệt may toàn cầu có giá trị hàng trăm tỉ USD/năm. Vậy để có thể lớn mạnh, chữa trị những căn bệnh trầm kha của dệt may, có “sức ăn” được miếng bánh lớn hơn trong tương lai thì chúng ta cần làm gì?

“Tham gia TPP sẽ là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng thị trường, nhất là thị trường Mỹ và Nhật Bản. Trong cuộc chơi này, Việt Nam cũng có cơ hội nếu doanh nghiệp có năng lực, phát triển theo chuỗi, đi từ sợi, dệt, nhuộm, may… Còn không, doanh nghiệp sẽ rất khó trụ được trước sức ép ngày càng lớn từ các đối tác nước ngoài” - Tổng giám đốc Tổng Công ty Cổ phần Phong Phú Phạm Xuân Trình.

(Xem tiếp kỳ sau)

Thanh Ngọc - Thành Công

Năng lượng Mới 490