Hồn thiêng trong đá

09:53 | 19/01/2024

589 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Những âm thanh u huyền như tiếng gọi của tiền nhân, rì rào róc rách như dòng thác chảy, miên man mải miết như tiếng loài chim hót trên đại ngàn... của đàn đá tấu lên những khúc hòa ca đầy cảm xúc của người Raglai.
Hồn thiêng trong đá
Khánh Sơn trong sương

Những thanh âm của đá

Bo Bo Hùng (Trung tâm Văn hóa huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa), người nghệ sĩ của núi rừng dìu dặt nhịp búa gỗ, những thanh âm vang lên từ đá như hồn thiêng nguồn cội ngàn năm dội về. Tiếng đá kêu như tiếng của linh hồn ẩn trong đá, khắc khoải đến ngây người. Đá vang lên những thanh âm riêng biệt, tha thiết, trữ tình như những làn điệu dân ca của đồng bào Raglai. Đó là hồn thiêng nguồn cội. Có giọng mẹ, giọng cha. Có giọng sông, giọng núi. Hết thảy hòa thành tiếng vọng thâm u của đại ngàn, tấu lên những khúc hòa ca Raglai nhiều cảm xúc.

Có lẽ đó là sự dồn nén của ngàn triệu năm trước trong lòng đá, tạo nên một linh hồn vĩnh cửu hóa thân vào đá, để bây giờ người đời nhọc nhằn tái tạo lại thanh âm ấy. Dưới những lớp đất đá của núi rừng Khánh Sơn này, chẳng biết tự bao giờ, người Raglai xứ này đã biết nghe tiếng đá kêu. Những tiếng đá khi va vào nhau thánh thót như tiếng của tiền nhân, rì rào róc rách như dòng thác chảy, miên man mải miết như tiếng loài chim hót trên đại ngàn, tấu lên khúc nhạc dặt dìu của đại ngàn vĩnh cửu.

Hồn thiêng trong đá
Đàn đá Raglai được chế tác từ loại đá đen, chỉ có tại huyện Khánh Sơn

Người bây giờ gọi đó là đàn đá, còn với người Raglai xứ này, họ gọi đó là “goong lu”, có nghĩa là cồng đá. Bao đời người Raglai chốn núi rừng Khánh Sơn đã làm bạn cùng đá, vui buồn cùng đá, khóc cười cùng đá. Đá cũng như thay cho lời kể, niềm an ủi, lúc vui, lúc buồn trong cuộc sống của người dân xứ này. Đá như biết khóc, biết cười cùng người Raglai tự nghìn đời nay. Tiếng đàn đá của Bo Bo Hùng vọng khắp núi rừng, như gọi thần núi, thần rừng và tổ tiên cùng thức giấc mà vui với người Raglai bây giờ đã có cái ăn, cái mặc và đẻ nhiều con cái.

Theo tư liệu tại Phòng Truyền thống huyện Khánh Sơn, bộ đàn đá đầu tiên được tìm thấy tại Việt Nam là Ndut Lieng Krak. Năm 1949, những người phu làm đường phát hiện tại Ndut Liêng Krak, tỉnh Đắk Lắk một bộ 11 thanh đá xám có dấu hiệu ghè đẽo bởi bàn tay con người, kích thước từ to đến nhỏ. Sau đó, bộ đàn đá này được nhà dân tộc học người Pháp Georges Condominas khai quật tại Đắk Lắk năm 1949. Georges Condomimas khẳng định nó không giống bất cứ một nhạc cụ bằng đá nào mà khoa học đã biết và đưa về Pháp để nghiên cứu, hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Museé de l’Homme ở Paris. Các nhà khảo cổ học kết luận, đây là bộ đàn đá của tộc người Raglai, có niên đại cách nay 2.000-5.000 năm.

Nhưng căn cứ vào loại đàn đá tìm được ở di chỉ khảo cổ Bình Đa, các nhà khoa học cho biết những thanh đá để làm đàn đá này có tuổi đời khoảng 3.000 năm. Các nhà nghiên cứu sau khi khai quật và khảo sát tại đỉnh núi Dốc Gạo, thuộc địa phận thôn Tô Hạp (xã Trung Hạp, huyện Khánh Sơn, Khánh Hòa) đã biết nơi đây chính là một xưởng chế tác đàn đá khổng lồ của người tiền sử, bởi vì người ta không chỉ phát hiện những thanh đá nguyên vẹn, mà còn những mảnh đá vương vãi trong quá trình con người ghè đẽo vẫn còn xung quanh. Các nhà nghiên cứu cho rằng đây chính là cái nôi của các bộ đàn đá, người xưa đã chế tác đàn đá tại đây và dân tộc Raglai là những người chủ thực sự của những bộ đàn đá.

Năm 1979, Việt Nam chính thức công bố với thế giới về việc phát hiện bộ đàn đá Khánh Sơn, loại nhạc cụ cổ có giá trị lịch sử, văn hóa đặc sắc của dân tộc khiến thế giới kinh ngạc. Sau đó, đàn đá đã được UNESCO xếp vào danh sách các nhạc cụ độc đáo trong không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên.

Hồn thiêng trong đá
Bo Bo Hùng biểu diễn đàn đá

Bo Bo Hùng thủ thỉ rằng, đàn đá như biểu hiện cho tiếng lòng của người Raglai, mỗi âm thanh khi được đánh lên, người nghe như cảm được người Raglai đang gửi lòng mình vào đá. Trong tâm thức người dân Raglai, âm thanh của đàn đá không chỉ là tiếng động để xua đuổi tà ma, mà còn là âm thanh thúc giục mọi người chăm làm nương rẫy, cầu bình an cho bản làng, cầu mưa thuận gió hòa.

Có một điều khó hiểu, đó là dẫu người xưa không biết nhạc lý, không có phương tiện đo tần số âm thanh, nhưng vẫn tạo tác chính xác với từng thanh âm của những phiến đá. Bo Bo Hùng giảng giải, thang âm của đàn đá Khánh Sơn phỏng theo cao độ của tầm cữ dân ca, có giọng nam, giọng nữ, có giọng trống, giọng mái hòa điệu cùng nhau. Thanh đá dài, to, dày có âm vực trầm, thanh đá ngắn, nhỏ, mỏng có âm vực cao và thanh, như những tiếng vọng thâm u của đại ngàn từ nghìn trùng năm tháng. Có lẽ, chính vì vậy, nghệ nhân đàn đá Bo Bo Hùng mới bảo, mỗi thanh đá có một linh hồn riêng.

Năm 1979, Việt Nam chính thức công bố việc phát hiện bộ đàn đá Khánh Sơn, loại nhạc cụ cổ có giá trị lịch sử, văn hóa đặc sắc của dân tộc khiến thế giới kinh ngạc. Sau đó, đàn đá đã được UNESCO xếp vào danh sách các nhạc cụ độc đáo trong không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên.

Linh hồn trong tiếng đàn đá

Những tưởng đàn đá có số phận êm đềm nhưng chẳng ai ngờ cũng nhiều thăng trầm. Thời chiến tranh, bộ đàn đá được coi là tiêu biểu của đàn đá Việt Nam là 12 thanh đá có kích thước, hình khối và âm thanh khác nhau được gia đình ông Bo Bo Ren cất giấu tại núi Dốc Gạo, thuộc địa phận xã Trung Hạp, huyện Khánh Sơn. Nhiều năm sau đó, đàn đá vẫn chìm trong quên lãng. Chỉ đến khi Cồng chiêng Tây nguyên được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, tiếng đàn đá mới được sống dậy, được quan tâm nhiều hơn và khiến nhiều người thực sự kinh ngạc.

Ông Mấu Quốc Tiến, nhà nghiên cứu văn hóa Raglai, từng có nhiều năm nghiên cứu, tìm hiểu về đàn đá, cho hay: Với những bộ đàn đá này, khi đánh lên không theo âm luật nào cả, mà có một thang âm riêng biệt, như cách thể hiện các làn điệu dân ca của đồng bào Raglai. Người Raglai từ xa xưa đã biết sử dụng âm thanh do các phiến đá kêu tạo ra để xua đuổi thú dữ, bảo vệ nương rẫy, buôn làng bằng cách treo những phiến đá gắn với một chiếc búa trên dòng suối. Sức nước chảy làm cho búa gõ vào đá, phát ra âm thanh. Nhiều người cảm thấy lạ lùng khi cũng là những âm thanh ấy, thú dữ nghe thì sợ hãi lánh xa, còn chim muông lại ở đâu kéo về ca hát. Tiếng đàn đá kết nối cõi âm với cõi dương, giữa con người với trời đất, thần linh, giữa hiện tại với quá khứ... Trong các lễ hội của người Raglai như lễ bỏ mả, lễ ăn mừng lúa mới hay những dịp hội vui của buôn làng, bao giờ đàn đá cũng được đưa ra diễn tấu đầu tiên.

Hồn thiêng trong đá
Hồn thiêng trong đá

Bo Bo Hùng, người cũng đã từng nhiều lần chơi đàn đá trong lễ hội, trong những lần thẩm âm đã khẳng định, đàn đá chính là “linh hồn” của người Raglai. Người Raglai xưa hay treo đá bên suối, khi dòng nước chảy qua kéo theo những sợi dây buộc một viên đá va vào phiến đá mà tạo nên tiếng kêu. Cứ thế, người Raglai trong làng, hay trên rẫy vẫn nghe tiếng đàn gần lắm. Những đêm thanh vắng của đại ngàn, tiếng đàn đá vang lên trong trẻo, thánh thót, nghe như tiếng chim ca giữa trùng điệp đại ngàn. Lại có những tiếng trầm như rừng núi chuyển mưa, như gió núi rung cây, như tiếng đàn trâu đàn bò mỗi chiều rầm rập đi về.

Hồn thiêng trong đá
Chính quyền huyện Khánh Sơn đang phục dựng lại tinh hoa đàn đá Raglai

Ông Mấu Quốc Tiến nói, ngày trước, người Raglai lấy đá tấu lên âm thanh giống cồng chiêng, chơi theo kiểu của cồng chiêng. Vì thế, đàn đá Khánh Sơn nguyên thủy chỉ đánh được một số giai điệu ngắn của người Raglai. Các bộ đàn đá chế tác sau này có thể đáp ứng được các yêu cầu của các loại nhạc cụ hiện đại, khi mỗi phiến đá một nốt nhạc. Chính vì thế, đàn đá bây giờ không chỉ có hòa theo dân ca Raglai mà còn có thể gõ lên những bản nhạc hiện đại với thanh âm độc đáo.

Có một điều khiến nhiều người tiếc nuối, đó là ngày nay những bộ đàn đá để biểu diễn còn rất ít, người biết đánh đàn đá cũng ít, còn người biết chọn đá để làm đàn lại càng ít hơn, chỉ còn lại vài người như Bo Bo Hùng, Bo Bo Ren, hay Tro Thị Nhung và Bo Bo Thị Trang...

Để bảo tồn và tạo thêm điểm nhấn du lịch, có một người đàn ông hơn 30 năm qua gắn bó với nghề làm đàn đá Raglai. Đó là ông Nguyễn Phương Đông (xã Diên Phú, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa) đã sản xuất hàng trăm chiếc đàn đá đủ kích cỡ, mang đến cho người dân và các du khách thêm một “đặc sản” độc đáo về tinh thần mỗi khi đến với Khánh Hòa. Theo ông Đông, nguồn đá ở Khánh Sơn bây giờ còn rất ít. Làm sao giữ gìn và khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên quý giá này là điều hết sức quan trọng.

Hồn thiêng trong đá
Bao đời người Raglai chốn núi rừng Khánh Sơn đã làm bạn cùng đá

Hiện tại, toàn huyện Khánh Sơn có 2 bộ đàn đá nguyên thủy dùng để biểu diễn. Một bộ đặt tại Phòng truyền thống huyện Khánh Sơn, một bộ do xã Sơn Hiệp quản lý. Trước nguy cơ mai một tiếng đàn đá, từ năm 2020, UBND huyện Khánh Sơn đã tiến hành khảo sát, phục dựng 3 hệ thống đàn đá nước giữ nương rẫy nguyên bản của người Raglai để bố trí tại các dòng chảy tự nhiên ở thôn Dốc Gạo (thị trấn Tô Hạp), xã Ba Cụm Nam và xã Thành Sơn. Đối với đàn đá dùng biểu diễn, chính quyền địa phương tiến hành chế tác 10 bộ để bổ sung cho phòng truyền thống huyện và 8 xã, thị trấn, mỗi địa phương 1 bộ. Cùng với việc phục dựng các bộ đàn đá, huyện Khánh Sơn cũng đã tổ chức tập huấn về phương pháp bảo tồn và kỹ năng biểu diễn đàn đá cho 16 nhạc công người Raglai tại địa phương, tổ chức quảng bá giá trị về loại nhạc cụ cổ truyền người Raglai gắn với phát triển du lịch...

Chiều bên triền núi dốc, Bo Bo Hùng vẫn chơi đàn đá. Dáng người uyển chuyển như một con nai rừng. Trong không gian mênh mang âm thanh của đá, có tươi vui lẫn u buồn của đời người Raglai trăm năm, có suối khe lẫn ghềnh thác, có cánh chim rừng bay hay tiếng đàn trâu về bản. Đàn đá Raglai vẫn còn đó, vẫn tiếp tục tấu lên những khúc nhạc chở theo hồn thiêng của đá, của tấm lòng người Raglai muôn đời.

Từ năm 2020, UBND huyện Khánh Sơn đã khảo sát, phục dựng 3 hệ thống đàn đá nước giữ nương rẫy nguyên bản của người Raglai để bố trí tại các dòng chảy tự nhiên ở thôn Dốc Gạo (thị trấn Tô Hạp), xã Ba Cụm Nam và xã Thành Sơn, đồng thời chế tác 10 bộ đàn đá để bổ sung cho phòng truyền thống huyện và 8 xã, thị trấn, mỗi địa phương 1 bộ.

Tiêu Dao

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps