"Doanh nghiệp tâm sự không cần tiền để trả lương mà lo cơm cho nhân viên"

08:13 | 10/11/2021

66 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
"Có nhiều doanh nghiệp tâm sự với tôi họ không cần tiền để trả lương mà họ chỉ mong có đủ tiền để lo bữa cơm của nhân viên", ông Lê Xuân Nghĩa chỉ ra tình trạng chung của không ít doanh nghiệp.

Doanh nghiệp lao đao vì Covid-19

Chia sẻ tại tọa đàm "Vốn vay lãi suất thấp, cứu tinh cho doanh nghiệp trong đại dịch" do báo Dân trí tổ chức sáng 9/11, chuyên gia Lê Xuân Nghĩa - nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia - nhận định dòng tiền của nhiều doanh nghiệp đang âm trong 2 năm qua.

Theo ông, từ khi dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, một lượng lớn người lao động tháo chạy khỏi TPHCM và các khu công nghiệp miền Đông.

"Từ năm 2019 - 2020 nhu cầu về vốn vẫn khá, tốc độ tăng trưởng tín dụng khoảng 12%. Năm 2021, chúng tôi dự báo tăng lên 15 - 16%. Nhưng thực tế, tốc độ tăng trưởng tín dụng năm nay đáng lo ngại. Điều quan trọng hơn cả vốn là dòng tiền của các doanh nghiệp bị âm. Nói cách khác, doanh nghiệp sản xuất ra không bán được hàng, thành tích vẫn có, có doanh thu, có lợi nhuận nhưng dòng tiền âm", ông nói.

Doanh nghiệp tâm sự không cần tiền để trả lương mà lo cơm cho nhân viên - 1
Dòng tiền của nhiều doanh nghiệp đang âm trong 2 năm qua do ảnh hưởng của dịch Covid-19 (Ảnh minh họa: Mạnh Quân).

Theo ông Nghĩa, từ năm nay, nhiều tập đoàn đều có dòng tiền bán hàng âm, dòng đầu tư âm, dòng tài chính trên thị chứng khoán may mắn có thể dương. Nhưng nếu tình hình trên cứ kéo dài thì dòng tiền mong manh trên thị trường chứng khoán cũng có thể giảm xuống, không thể bù đắp cho các dòng tiền đầu tư.

"Tập đoàn lớn còn thế, còn những tập đoàn nhỏ, doanh nghiệp vừa và nhỏ thì dòng tiền âm cách đây 2 năm. Họ không biết làm thế nào, nói nhu cầu vay vốn thì lúc nào họ chẳng có nhu cầu nhưng họ không đủ điều kiện để vay nữa rồi", ông phân tích.

Hiện tại, các doanh nghiệp đang trong tình trạng nhìn dòng luân chuyển hàng hóa đứt gãy nghiêm trọng. Đôi khi, các doanh nghiệp nhập thiết bị, nguyên vật liệu về cũng để đấy. Bởi lực lao động thì không có, khách hàng mua không có, hợp đồng cũng không có mà giá xăng, giá gas tăng cao, còn cước vận tải, vận chuyển tăng 9 - 10 lần. Cho nên, nhiều doanh nghiệp chỉ còn lại ít tiền để duy trì lực lượng lao động, hoạt động công ty.

"Có nhiều doanh nghiệp tâm sự với tôi họ không cần tiền để trả lương mà họ chỉ mong có đủ tiền để lo bữa cơm của nhân viên", ông Nghĩa chỉ ra tình trạng chung của nhiều doanh nghiệp.

Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp vẫn còn gặp khó khi tiếp cận với các nguồn vốn giá rẻ từ ngân hàng nhưng tài sản thế chấp đã hết, doanh thu giảm, lợi nhuận cũng âm vì đại dịch. Về vấn đề này, ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng, nguyên Vụ trưởng Vụ Tín dụng (Ngân hàng Nhà nước), cho rằng, dư địa để tiếp tục giảm lãi suất không còn lớn. Cho nên, vấn đề này tùy thuộc vào từng tổ chức tín dụng. Ngoài ra, theo ông, doanh nghiệp sẽ vay thế nào khi họ không đáp ứng được điều kiện.

Tổ chức tín dụng vẫn cần xem xét cho vay được, xem xét từng khách hàng nhưng phải kiểm soát dòng tiền. Đặc biệt đối với các hộ nông dân có phương án sản xuất, thông qua tổ chức chính trị xã hội chia sẻ thì vẫn có thể giải ngân cho họ nhưng cần có cơ chế bảo lãnh, song hiện nay vẫn chưa áp dụng được, việc tiếp cận vốn vay vẫn còn khó khăn.

Ngân hàng đồng hành cùng doanh nghiệp ra sao?

Ông Phạm Tiến Trình, Trưởng Ban Chính sách Tín dụng Agribank, thông tin, 4 tiêu chí đối với các doanh nghiệp tại Agribank gồm: Không nhập được thiết bị vật tư; Sản xuất ra sản phẩm, thành phẩm mà ko tiêu thụ được; Doanh thu bán hàng, lợi nhuận bị sụt giảm so với cùng kỳ trước.

Đối với khách hàng cá nhân, những người bị dừng việc, mất việc làm, tạm hoãn hợp đồng; là bệnh nhân đi cách ly cũng là đối tượng trong bộ tiêu chí. Ngân hàng này xác định dựa trên các tiêu chí trên để làm căn cứ để cơ cấu nợ, miễn giảm lãi, cho vay phục hồi tiếp để phát huy tác dụng trong gói hỗ trợ chính xác nhất.

Về thủ tục, trong điều kiện đối với những vùng ảnh hưởng ít (vùng xanh, vàng), tính chất giãn cách thấp thì vẫn đến ngân hàng giao dịch được, hồ sơ thủ tục hoàn thiện được. Nhưng với khu vực yêu cầu giãn cách cao (vùng cam, đỏ, nơi thực hiện chỉ thị 15-16) không được ra đường thì giao dịch khó khăn.

Trường hợp này Agribank tiếp nhận thông tin về cơ cấu nợ, miễn giảm lãi bằng hình thức trực tuyến thông qua gửi mail, tin nhắn, fax để ngân hàng tiếp nhận thông tin và xử lý. Đồng thời, ngân hàng cho phép sau khi giãn cách 30 ngày thì hoàn thiện thủ tục trực tiếp.

Trong lúc giãn cách, khách hàng F0, F1 cũng được áp dụng. Tất cả chuyển sang trực tuyến, nhưng cũng có thời hạn.

"Khuôn khổ của Nhà nước không cho phép, nhưng trước mắt, Agribank xử lý trực tuyến để hoàn thiện sau, làm như vậy để các giao tiếp giữa hai bên và thủ tục không bị gián đoạn", ông Trình nhấn mạnh.

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tổng số tiền lãi giảm lũy kế từ 15/7 đến 30/9 của 16 ngân hàng là khoảng 12.236 tỷ đồng, đạt 59,36% so với cam kết. Trong đó, có 3 ngân hàng giảm lãi suất, giảm phí dịch vụ nhiều nhất đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 lần lượt là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Theo Dân trí

Tin tức kinh tế ngày 9/11: Doanh nghiệp châu Âu lạc quan về môi trường kinh doanh của Việt NamTin tức kinh tế ngày 9/11: Doanh nghiệp châu Âu lạc quan về môi trường kinh doanh của Việt Nam
EuroCham lạc quan về tăng trưởng kinh tế Việt NamEuroCham lạc quan về tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Bài 5: EVN sẽ cơ bản hoàn thành chuyển đổi số vào năm 2022Bài 5: EVN sẽ cơ bản hoàn thành chuyển đổi số vào năm 2022
Bài 4: Nở rộ các sáng kiến “số” trong phòng chống dịch COVID-19Bài 4: Nở rộ các sáng kiến “số” trong phòng chống dịch COVID-19
Bài 3: Chuyển đổi số - người lao động có lo mất việc làm?Bài 3: Chuyển đổi số - người lao động có lo mất việc làm?

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,300 ▲500K 84,500 ▲500K
AVPL/SJC HCM 82,300 ▲500K 84,500 ▲500K
AVPL/SJC ĐN 82,300 ▲500K 84,500 ▲500K
Nguyên liệu 9999 - HN 73,650 ▲400K 74,600 ▲400K
Nguyên liệu 999 - HN 73,550 ▲400K 74,500 ▲400K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,300 ▲500K 84,500 ▲500K
Cập nhật: 26/04/2024 12:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.300 ▲300K 75.100 ▲300K
TPHCM - SJC 82.600 ▲300K 84.800 ▲500K
Hà Nội - PNJ 73.300 ▲300K 75.100 ▲300K
Hà Nội - SJC 82.600 ▲300K 84.800 ▲500K
Đà Nẵng - PNJ 73.300 ▲300K 75.100 ▲300K
Đà Nẵng - SJC 82.600 ▲300K 84.800 ▲500K
Miền Tây - PNJ 73.300 ▲300K 75.100 ▲300K
Miền Tây - SJC 82.700 ▲700K 84.900 ▲600K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.300 ▲300K 75.100 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.600 ▲300K 84.800 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.300 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.600 ▲300K 84.800 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.300 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.250 ▲350K 74.050 ▲350K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.290 ▲260K 55.690 ▲260K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.070 ▲200K 43.470 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.560 ▲150K 30.960 ▲150K
Cập nhật: 26/04/2024 12:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,325 ▲20K 7,530 ▲20K
Trang sức 99.9 7,315 ▲20K 7,520 ▲20K
NL 99.99 7,320 ▲20K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,300 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,390 ▲20K 7,560 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,390 ▲20K 7,560 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,390 ▲20K 7,560 ▲20K
Miếng SJC Thái Bình 8,280 ▲50K 8,480 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 8,280 ▲50K 8,480 ▲50K
Miếng SJC Hà Nội 8,280 ▲50K 8,480 ▲50K
Cập nhật: 26/04/2024 12:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,800 ▲800K 85,000 ▲700K
SJC 5c 82,800 ▲800K 85,020 ▲700K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,800 ▲800K 85,030 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,350 ▲250K 75,050 ▲250K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,350 ▲250K 75,150 ▲250K
Nữ Trang 99.99% 73,150 ▲250K 74,250 ▲250K
Nữ Trang 99% 71,515 ▲248K 73,515 ▲248K
Nữ Trang 68% 48,145 ▲170K 50,645 ▲170K
Nữ Trang 41.7% 28,615 ▲104K 31,115 ▲104K
Cập nhật: 26/04/2024 12:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,112.17 16,274.92 16,797.08
CAD 18,090.44 18,273.17 18,859.45
CHF 27,072.22 27,345.68 28,223.04
CNY 3,429.67 3,464.31 3,576.00
DKK - 3,579.44 3,716.52
EUR 26,496.28 26,763.92 27,949.19
GBP 30,880.63 31,192.55 32,193.34
HKD 3,156.04 3,187.92 3,290.20
INR - 303.48 315.61
JPY 157.98 159.58 167.21
KRW 15.95 17.72 19.33
KWD - 82,209.56 85,496.44
MYR - 5,249.99 5,364.51
NOK - 2,265.53 2,361.72
RUB - 261.73 289.74
SAR - 6,740.29 7,009.77
SEK - 2,281.68 2,378.56
SGD 18,179.62 18,363.26 18,952.42
THB 605.24 672.49 698.24
USD 25,118.00 25,148.00 25,458.00
Cập nhật: 26/04/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,274 16,374 16,824
CAD 18,299 18,399 18,949
CHF 27,290 27,395 28,195
CNY - 3,455 3,565
DKK - 3,592 3,722
EUR #26,695 26,730 27,990
GBP 31,269 31,319 32,279
HKD 3,160 3,175 3,310
JPY 158.97 158.97 166.92
KRW 16.59 17.39 20.19
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,269 2,349
NZD 14,836 14,886 15,403
SEK - 2,277 2,387
SGD 18,166 18,266 18,996
THB 630.72 675.06 698.72
USD #25,119 25,119 25,458
Cập nhật: 26/04/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 26/04/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25115 25115 25445
AUD 16316 16366 16868
CAD 18338 18388 18839
CHF 27474 27524 28086
CNY 0 3458.5 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26898 26948 27650
GBP 31401 31451 32111
HKD 0 3140 0
JPY 160.45 160.95 165.46
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0313 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14883 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18403 18453 19014
THB 0 643.1 0
TWD 0 779 0
XAU 8250000 8250000 8420000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 26/04/2024 12:00