Cải thiện chỉ số tiếp cận tín dụng

07:05 | 29/04/2018

416 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Nhiều chuyên gia kinh tế nhận định, chỉ số tiếp cận vốn tín dụng thấp không chỉ do thủ tục hành chính, do các ngân hàng thương mại mà còn bởi thiếu thông tin, thiếu minh bạch của chính các doanh nghiệp.  

Chỉ số tiếp cận tín dụng tăng

Trong báo cáo mới nhất về môi trường kinh doanh của Ngân hàng Thế giới (WB), chỉ số tiếp cận tín dụng của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể và ổn định, nằm trong nhóm 30 nước có chỉ số cao nhất. Cụ thể, năm 2018, Việt Nam xếp thứ 29/190 nước, đạt 75 điểm trên thang điểm 100. So với năm 2017, chỉ số này đã tăng 5 điểm, cải thiện 3 bậc và là chỉ số cao thứ 2 trong 10 chỉ số của Việt Nam trong báo cáo. Cùng với 5 chỉ số tăng bậc khác, chỉ số tiếp cận tín dụng đã giúp cho xếp hạng về môi trường kinh doanh của Việt Nam tăng 14 bậc, đứng vị trí 68/190.

cai thien chi so tiep can tin dung
Tiến sĩ Võ Trí Thành

Đánh giá về vấn đề này, Tiến sĩ Võ Trí Thành - nguyên Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương - cho rằng, chỉ số này thể hiện những nỗ lực cải thiện trong khả năng tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với hệ thống ngân hàng. Đây chính là những nỗ lực cải thiện không ngừng nghỉ qua những thủ tục pháp lý và cả trên thực tiễn của Việt Nam.

Tuy nhiên, điểm số tiếp cận tín dụng 75 là khá tốt song vẫn còn xa so với chuẩn 100 điểm, đồng thời thấp hơn mức trung bình của OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế, bao gồm 34 nước có nền kinh tế thị trường phát triển nhất, có thu nhập cao), của khu vực Đông Á - Thái Bình Dương và thấp hơn rất nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á. Chỉ số tiếp cận tín dụng có vẻ khả thi nhưng song song với đó là những rào cản cố hữu trên con đường tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp Việt Nam.

Đơn cử, nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp không ít khó khăn trong việc tiếp cận vốn ngân hàng, nguyên nhân chủ yếu là do những vấn đề nội tại của chính doanh nghiệp, như: Năng lực tài chính yếu kém; không chứng minh được tính khả thi và hiệu quả của dự án; phương án sản xuất kinh doanh chưa rõ ràng, chưa chứng minh được hiệu quả cao; nợ phải trả tồn đọng lớn chưa có biện pháp xử lý. Bên cạnh đó, độ phủ về thông tin tín dụng của các cơ quan cung cấp tín dụng thấp hơn rất nhiều nước… Do vậy Việt Nam cần có nhiều nỗ lực hơn để cải thiện chỉ số tiếp cận tín dụng.

Vẫn còn nhiều quy định cứng

Đánh giá về tình hình tiếp cận tín dụng trong những năm qua, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú nhận định: “Việt Nam đã tạo dựng được một hành lang pháp lý để quan hệ tín dụng thực sự bình đẳng giữa doanh nghiệp và ngân hàng; giữa người cần cho vay và người vay vốn”.

Nhưng trên thực tế, vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp trong các lĩnh vực khởi nghiệp hay nông nghiệp gặp khó khăn trong quy định về tài sản cố định bảo đảm, nhiều doanh nghiệp có hàng nghìn héc-ta đất trồng trọt, sản xuất nhưng quy định hiện hành yêu cầu phải có nhà xưởng thế chấp mới có thể được vay vốn.

cai thien chi so tiep can tin dung
Tiến sĩ Vũ Tiến Lộc

Trao đổi với phóng viên Báo Năng lượng Mới về vấn đề này, Tiến sĩ Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết: Trong thời gian 2 năm gần đây, ngành ngân hàng đã có những tiến bộ vượt bậc, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của doanh nghiệp. Theo như xếp hạng của WB thì Việt Nam được xếp là 1 trong 30 nền kinh tế có chỉ số tiếp cận tín dụng dễ dàng nhất trên 190 nền kinh tế được xếp hạng. Điều này cho thấy những nỗ lực vượt bậc của ngành ngân hàng, là 1 trong 2 lĩnh vực của Việt Nam có tiến bộ nổi trội trong cải cách thủ tục hành chính. Đặc biệt, trong thời gian qua, các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả cao và có sự minh bạch thì đều tiếp cận dễ dàng các nguồn vốn của ngân hàng.

Song song với những thuận lợi đó vẫn còn một số lĩnh vực hiện nay đang có những trở ngại cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng, đơn cử hai lĩnh vực quan trọng nhất đó là khởi nghiệp và nông nghiệp. Những vướng mắc trong lĩnh vực này không chỉ là trách nhiệm của ngành ngân hàng mà còn liên quan đến những khuôn khổ pháp lý. Do đó, đây phải là nỗ lực giải quyết đồng bộ của Quốc hội, Chính phủ, các ngành các cấp chứ không riêng ngành ngân hàng. Ví dụ với việc cho vay nông nghiệp thì phải có thay đổi trong chính sách đất đai, còn cho vay khởi nghiệp cũng cần có những thay đổi trong hệ thống pháp luật để có thể chấp nhận những rủi ro trong quá trình khởi nghiệp.

“Trong thời gian tới, VCCI sẽ làm việc với Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường để lấy ý kiến, từ đó đề xuất các giải pháp xử lý các vấn đề này. Trong đó, trọng tâm là các giải pháp sửa đổi luật vì sự chồng chéo của hệ thống pháp luật hiện nay đang cản trở việc tiếp cận vốn của các doanh nghiệp trong lĩnh vực khởi nghiệp và nông nghiệp” - ông Vũ Tiến Lộc cho hay.

Dưới góc độ khác, theo ông Nguyễn Đức Long - Vụ trưởng Vụ Dự báo thống kê Ngân hàng Nhà nước, để tăng khả năng tiếp cận tín dụng, ngoài những giải pháp từ ngành ngân hàng, bản thân doanh nghiệp cần cơ cấu lại hoạt động, nâng cao khả năng tài chính, tạo niềm tin để các tổ chức tín dụng yên tâm cấp tín dụng. Đồng thời, cần có sự phối hợp đồng bộ của các bộ, ngành, địa phương trong việc thực hiện các giải pháp về tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh theo chủ trương của Chính phủ để hỗ trợ các quỹ bảo lãnh tốt hơn.

Ông Mạc Quốc Anh - Phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Hà Nội: Các tổ chức tín dụng cần phát triển đa dạng các sản phẩm tín dụng, trong đó có những sản phẩm đặc thù cho doanh nghiệp nhỏ và vừa như sản phẩm về ngoại tệ, các công cụ phòng ngừa rủi ro lãi suất và tỷ giá...

Thiên Minh - Đông Nghi

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC HCM 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC ĐN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Nguyên liệu 9999 - HN 74,500 ▲1250K 75,450 ▲1250K
Nguyên liệu 999 - HN 74,400 ▲1250K 75,350 ▲1250K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Cập nhật: 26/04/2024 21:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
TPHCM - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Hà Nội - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Hà Nội - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Đà Nẵng - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Đà Nẵng - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Miền Tây - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Miền Tây - SJC 83.000 ▲1000K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 ▲800K 74.500 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 ▲600K 56.030 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 ▲460K 43.730 ▲460K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 ▲330K 31.140 ▲330K
Cập nhật: 26/04/2024 21:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 ▲80K 7,590 ▲80K
Trang sức 99.9 7,375 ▲80K 7,580 ▲80K
NL 99.99 7,380 ▲80K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
Miếng SJC Thái Bình 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Miếng SJC Nghệ An 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Miếng SJC Hà Nội 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Cập nhật: 26/04/2024 21:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 ▲1000K 85,200 ▲900K
SJC 5c 83,000 ▲1000K 85,220 ▲900K
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 ▲1000K 85,230 ▲900K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 ▲700K 75,500 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 ▲700K 75,600 ▲700K
Nữ Trang 99.99% 73,700 ▲800K 74,700 ▲700K
Nữ Trang 99% 71,960 ▲693K 73,960 ▲693K
Nữ Trang 68% 48,451 ▲476K 50,951 ▲476K
Nữ Trang 41.7% 28,803 ▲292K 31,303 ▲292K
Cập nhật: 26/04/2024 21:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 26/04/2024 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,249 16,269 16,869
CAD 18,228 18,238 18,938
CHF 27,226 27,246 28,196
CNY - 3,427 3,567
DKK - 3,549 3,719
EUR #26,278 26,488 27,778
GBP 31,124 31,134 32,304
HKD 3,107 3,117 3,312
JPY 157.32 157.47 167.02
KRW 16.22 16.42 20.22
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,223 2,343
NZD 14,817 14,827 15,407
SEK - 2,247 2,382
SGD 18,053 18,063 18,863
THB 632.7 672.7 700.7
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 26/04/2024 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 26/04/2024 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 26/04/2024 21:00