Vẫn còn những rào cản chính sách tiền tệ

00:34 | 12/08/2012

1,868 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) - Nửa đầu năm đã trôi qua với nhiều tín hiệu tích cho thấy kinh tế vĩ mô dần ổn định trở lại. Lạm phát giảm nhanh và mạnh hơn nhiều so với dự kiến, tỉ giá ổn định, cán cân thương mại được cải thiện theo chiều hướng tốt, dự trữ ngoại hối gia tăng đáng kể… trong khi đó vấn đề phát sinh lại là tăng trưởng kinh tế có phần chững lại, tổng cầu nền kinh tế sụt giảm mạnh.

Chưa thể chủ quan với lạm phát

Tăng trưởng tín dụng tính đến hết tháng 6 ở mức rất thấp, chỉ dưới 0,5%. Dư địa cho tăng trưởng tín dụng năm 2012 có thể nói là gần như còn nguyên. Trong bối cảnh đó, đã có những ý kiến thể hiện sự kỳ vọng vào việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ điều hành chính sách tiền tệ theo hướng “dễ thở hơn”, theo đó, để thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, kịp thời tác động tới GDP sau khi trừ đi độ trễ thì sự thay đổi nếu có sẽ diễn ra sớm và ngay trong tháng 7, tháng 8. Tuy nhiên cho đến nay, điều hành chính sách tiền tệ của NHNN vẫn tỏ ra hết sức thận trọng và có vẻ như thực trạng nền kinh tế vẫn còn rất nhiều vấn đề đang là rào cản đối với yếu tố tăng trưởng…

Gần đây nhất, theo bản đánh giá tình hình kinh tế 7 tháng đầu năm của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, lạm phát giảm nhanh trong 2 tháng vừa qua chủ yếu do sự giảm mạnh của giá các hàng hóa cơ bản. Cụ thể, nhóm hàng giao thông trong tháng 7 giảm tới 2,71% so với tháng trước do giá xăng dầu giảm, nhóm lương thực đã giảm mạnh tháng thứ 7 liên tiếp và nhóm thực phẩm giảm 5 tháng liên tiếp. Giá các hàng hóa cơ bản này khi giảm tới một mức độ sẽ kéo nguồn cung giảm nhanh hơn tốc độ giảm của cầu và khiến giá có chiều hướng tăng trở lại.

Như vậy, lạm phát vẫn chưa thực sự ổn định một cách vững chắc và những sự thay đổi quá sớm, nới lỏng bớt chính sách tiền tệ được các chuyên gia cảnh báo rằng có thể sẽ thổi bùng lạm phát trong năm sau. Mục tiêu ổn định và hạ thấp lạm phát trong các tháng còn lại của năm hiện tại vẫn đang được đưa lên làm mục tiêu ưu tiên hàng đầu.

Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vẫn còn đang gặp rất nhiều khó khăn mà mấu chốt là khó khăn về “đầu ra”. Sự tắc nghẽn lưu thông của dòng tiền trong các doanh nghiệp và tồn kho tăng cao dẫn tới hiệu quả kinh doanh giảm sút nghiêm trọng, theo đó chính các doanh nghiệp cũng không còn nhiều nhu cầu vay tiền bổ sung cho vòng quay sản xuất và bản thân các ngân hàng cũng không muốn cho doanh nghiệp vay tiền khi sức khỏe tài chính của doanh nghiệp nhìn chung có chiều hướng suy yếu.

Hiện nay các ngân hàng cũng không muốn cho doanh nghiệp vay tiền khi sức khỏe tài chính của doanh nghiệp nhìn chung có chiều hướng suy yếu.

Một số ý kiến cho rằng, trong bối cảnh hiện tại, “kích cầu tiêu dùng” có thể là một lựa chọn. Tuy nhiên, với thực trạng vĩ mô và mục tiêu phát triển kinh tế năm 2012 thì người viết cho rằng sẽ rất khó có thể sử dụng biện pháp này trong các tháng còn lại của năm 2012, thậm chí trong một vài năm sau. Những khó khăn quan trọng khi sử dụng giải pháp kích cầu tiêu dùng chủ yếu nằm ở khâu quản lý khi mà rất khó quản lý một cách chặt chẽ được dòng tiền bơm ra trực tiếp này để đưa tiền vào nơi thiếu, nơi cần thiết theo đúng định hướng phát triển kinh tế.

Gói kích cầu trong năm 2009 là một minh chứng rõ ràng nhất cho thấy kích cầu là một “con dao hai lưỡi”. Với tổng số gói kích cầu bao gồm các khoản hỗ trợ lãi suất (4%), các khoản ứng vốn, chuyển vốn, bổ sung trái phiếu chính phủ, miễn giảm thuế, bảo lãnh tín dụng… xấp xỉ 160.000 tỉ đồng, gói kích cầu đã đưa tăng trưởng GDP năm 2009 lên mức 6,09% và tiếp tục tăng trưởng 7,34% trong năm 2010 bất chấp những ảnh hưởng kinh tế thế giới còn đang chìm trong khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên, sau độ trễ bình quân 6-8 tháng, bắt đầu từ Quý II/2010 lạm phát bắt đầu tăng đột biến trong khi biên độ tăng trưởng kinh tế bắt đầu chững lại.

Hạ lãi suất không phải là thần dược

6 tháng đầu năm NHNN giảm lãi suất tất cả 5 lần, giảm trần huy động 4% và giảm các mức lãi suất điều hành 5%. Đây là loạt giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp tham gia nền kinh tế chứ không hoàn toàn là nới lỏng tiền tệ. Bản thân lãi suất cho vay lúc cao nhất lên tới hơn 18-20% với các lĩnh vực phi sản xuất đã thuộc vào nhóm cao bậc nhất thế giới. Khi lạm phát đã tạm thời ổn định, việc giảm lãi suất về mức mà doanh nghiệp sản xuất có thể tồn tại là điều tất nhiên. Mặc dù vậy nhưng giảm lãi suất cho tới thời điểm hiện tại tốc độ phản ánh vào nền kinh tế, vào sức khỏe doanh nghiệp rất chậm.

Thứ nhất, ngân hàng giảm lãi suất nhưng không cho vay thì doanh nghiệp không thể tiếp cận được với nguồn vốn giá rẻ. Bằng chứng là suốt 6 tháng qua tăng trưởng tín dụng giậm chân tại chỗ và những khó khăn về chi phí vốn của doanh nghiệp hầu như vẫn còn đó. Yếu tố thứ hai, giảm lãi suất các khoản vay cũ xuống được tiến hành khá muộn. Bên cạnh đó, các hợp đồng vay với mức lãi suất “cắt cổ” lại chủ yếu được ký kết với các kỳ hạn ngắn, lãi trả theo định kỳ tháng hoặc quý. Nhiều doanh nghiệp có tỷ trọng vay nợ ngắn hạn với chi phí vay cao đều có tình trạng sức khỏe tài chính suy yếu trầm trọng nên cũng không được hưởng lợi nhiều khi lãi suất hạ.

Theo lý thuyết, giới chuyên gia trong nước cho rằng, lãi suất còn dư địa khoảng 200-300 điểm phần trăm để giảm thêm, tuy nhiên cũng cảnh báo nguy cơ gây áp lực lên tỷ giá vào cuối năm khi chênh lệch lãi suất nội tệ - ngoại tệ thu hẹp quá nhanh và nhiều.

Nợ xấu sẽ tiếp tục là rào cản lớn

Nợ xấu 6 tháng tăng mạnh, đã chiếm tới gần 8% tổng dư nợ là một băn khoăn lớn của các cơ quan điều hành lẫn các nhà đầu tư. Nợ xấu gia tăng mạnh cũng phản ánh rằng tình trạng các doanh nghiệp tiếp tục xấu đi, khả năng thanh toán, chi trả sụt giảm nghiêm trọng. Một bên, nhu cầu các doanh nghiệp còn “sống khỏe” có chiều hướng thu hẹp hoạt động nếu biên lợi nhuận giảm. Bên kia, các ngân hàng thương mại cổ phần “còng lưng” gánh và tìm cách giải quyết nợ xấu, đương nhiên sẽ chẳng ngân hàng nào muốn cho một doanh nghiệp đang thoi thóp vay tiền. Rào cản mà yếu tố nợ xấu cũng thể hiện qua việc điều kiện cho vay ngày một khắt khe hơn, doanh nghiệp ngày càng khó tiếp cận nguồn vốn vay từ ngân hàng hơn, đặc biệt là các lĩnh vực không khuyến khích.

Qua những yếu tố trên có thể thấy rằng, những tháng còn lại của năm 2012 nền kinh tế vẫn còn nhiều vấn đề “nhức nhối” và chúng ta không nên kỳ vọng nhiều vào sự thay đổi hay nới lỏng tiền tệ. Ngay cả đến tăng trưởng tín dụng, khả năng đẩy mạnh tăng trưởng với dư địa bình quân hơn 2% mỗi tháng cũng là một nhiệm vụ “bất khả thi” nếu như không tính đến khả năng đẩy mạnh tín dụng các dự án đầu tư công. Nếu đi theo con đường ưu tiên cho sự ổn định thì có thể là tốc độ thay đổi sẽ khá chậm, nhưng chỉ khi sức khỏe doanh nghiệp tốt lên, sức cầu tăng dần thì dòng vốn sẽ tự nó được khơi thông mà không phải sử dụng tới những biện pháp “cứng”, không phải lo lắng vì những tác dụng phụ của nó.

Hồng Dương

 

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 87,700 89,800
AVPL/SJC HCM 87,700 89,800
AVPL/SJC ĐN 87,700 89,800
Nguyên liệu 9999 - HN 75,250 76,150
Nguyên liệu 999 - HN 75,150 76,050
AVPL/SJC Cần Thơ 87,700 89,800
Cập nhật: 19/05/2024 16:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 75.500 77.400
TPHCM - SJC 87.700 90.200
Hà Nội - PNJ 75.500 77.400
Hà Nội - SJC 87.700 90.200
Đà Nẵng - PNJ 75.500 77.400
Đà Nẵng - SJC 87.700 90.200
Miền Tây - PNJ 75.500 77.400
Miền Tây - SJC 88.000 90.400
Giá vàng nữ trang - PNJ 75.500 77.400
Giá vàng nữ trang - SJC 87.700 90.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 75.500
Giá vàng nữ trang - SJC 87.700 90.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 75.400 76.200
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.900 57.300
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 43.330 44.730
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.450 31.850
Cập nhật: 19/05/2024 16:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,515 7,700
Trang sức 99.9 7,505 7,690
NL 99.99 7,520
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,515
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,580 7,730
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,580 7,730
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,580 7,730
Miếng SJC Thái Bình 8,780 9,020
Miếng SJC Nghệ An 8,780 9,020
Miếng SJC Hà Nội 8,780 9,020
Cập nhật: 19/05/2024 16:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 87,700 90,400
SJC 5c 87,700 90,420
SJC 2c, 1C, 5 phân 87,700 90,430
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 75,600 77,200
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 75,600 77,300
Nữ Trang 99.99% 75,400 76,400
Nữ Trang 99% 73,644 75,644
Nữ Trang 68% 49,607 52,107
Nữ Trang 41.7% 29,512 32,012
Cập nhật: 19/05/2024 16:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,542.79 16,709.89 17,245.90
CAD 18,212.53 18,396.50 18,986.61
CHF 27,337.87 27,614.01 28,499.80
CNY 3,452.70 3,487.58 3,599.99
DKK - 3,638.16 3,777.47
EUR 26,943.10 27,215.25 28,420.33
GBP 31,406.75 31,723.99 32,741.62
HKD 3,179.47 3,211.58 3,314.60
INR - 304.36 316.53
JPY 158.48 160.08 167.74
KRW 16.23 18.04 19.68
KWD - 82,668.54 85,973.23
MYR - 5,379.96 5,497.28
NOK - 2,331.49 2,430.47
RUB - 266.28 294.77
SAR - 6,767.26 7,037.78
SEK - 2,325.99 2,424.74
SGD 18,433.15 18,619.34 19,216.61
THB 621.40 690.45 716.88
USD 25,220.00 25,250.00 25,450.00
Cập nhật: 19/05/2024 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,710 16,730 17,330
CAD 18,384 18,394 19,094
CHF 27,469 27,489 28,439
CNY - 3,452 3,592
DKK - 3,617 3,787
EUR #26,804 27,014 28,304
GBP 31,758 31,768 32,938
HKD 3,131 3,141 3,336
JPY 159.26 159.41 168.96
KRW 16.61 16.81 20.61
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,302 2,422
NZD 15,345 15,355 15,935
SEK - 2,300 2,435
SGD 18,349 18,359 19,159
THB 652.14 692.14 720.14
USD #25,165 25,165 25,450
Cập nhật: 19/05/2024 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,150.00 25,450.00
EUR 27,087.00 27,196.00 28,407.00
GBP 31,525.00 31,715.00 32,705.00
HKD 3,195.00 3,208.00 3,314.00
CHF 27,506.00 27,616.00 28,486.00
JPY 159.51 160.15 167.51
AUD 16,660.00 16,727.00 17,239.00
SGD 18,533.00 18,607.00 19,168.00
THB 683.00 686.00 715.00
CAD 18,327.00 18,401.00 18,952.00
NZD 15,304.00 15,817.00
KRW 17.96 19.65
Cập nhật: 19/05/2024 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25219 25219 25450
AUD 16721 16771 17284
CAD 18456 18506 18962
CHF 27722 27772 28325
CNY 0 3486.6 0
CZK 0 1030 0
DKK 0 3640 0
EUR 27342 27392 28094
GBP 31940 31990 32643
HKD 0 3250 0
JPY 161.21 161.71 166.26
KHR 0 5.6733 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.0393 0
MYR 0 5520 0
NOK 0 2305 0
NZD 0 15332 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2320 0
SGD 18686 18736 19293
THB 0 662 0
TWD 0 780 0
XAU 8750000 8750000 8980000
XBJ 7000000 7000000 7550000
Cập nhật: 19/05/2024 16:45