Không nên ưu đãi FDI trong ngành may xuất khẩu!

07:10 | 15/09/2014

1,356 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Những tháng đầu năm 2014, vốn FDI đổ vào ngành dệt may nước ta tăng mạnh dẫn đến việc cạnh tranh giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Việt trong ngành dệt may càng thêm gay gắt. Về vấn đề này, phóng viên Năng lượng Mới đã có cuộc trao đổi với ông Phạm Xuân Hồng, Chủ tịch Hội Dệt may thêu đan TP HCM.

Năng lượng Mới số 355

PV: Thưa ông, tại TP HCM, 6 tháng đầu năm vốn đầu tư FDI vào ngành dệt may tăng cao. Tại các khu chế xuất - khu công nghiệp, hơn 80% vốn “ngoại” đổ vào ngành dệt may. Điều này có làm tăng áp lực cạch tranh cho các doanh nghiệp trong nước không?

Ông Phạm Xuân Hồng: Các doanh nghiệp trong nước không ngại cạnh tranh với FDI nhưng phải cạnh tranh công bằng, lành mạnh. Hiện nay, doanh nghiệp FDI được nhiều ưu đãi về thuế, phí, đất đai... trong khi doanh nghiệp trong nước không được hưởng những ưu đãi này. Đó là sự thiếu công bằng.

Nếu khoảng 20 năm trước công nghệ của nước ta còn yếu, lao động phổ thông nhiều, để giải quyết công ăn việc làm cho người dân và phát triển công nghiệp thì kêu gọi FDI ồ ạt bằng mọi giá là có thể chấp nhận được. Nhưng hiện nay kinh tế, xã hội đã có những chuyển biến lớn, vì vậy chính sách kêu gọi đầu tư cũng nên thay đổi cho phù hợp với tình hình.

Đặc biệt, với ngành may mặc xuất khẩu thì không cần có chính sách ưu đãi để kêu gọi đầu tư FDI. Bởi lẽ đầu tư vào ngành này không cần vốn lớn, kỹ thuật không cao, các doanh nghiệp trong nước hoàn toàn đủ sức đáp ứng yêu cầu thị trường. Nhà nước nên hướng những ưu đãi thu hút FDI vào ngành sợi, dệt, nhuộm... là những ngành công nghiệp phụ trợ cho ngành may mà các doanh nghiệp trong nước chưa phát triển được.

Không nên ưu đãi FDI trong ngành may xuất khẩu!

Ông Phạm Xuân Hồng, Chủ tịch Hội Dệt may thêu đan TP HCM

PV: Tình trạng báo lỗ, chuyển giá của FDI có phải cũng đến sự cạnh tranh bất bình đẳng của FDI so với doanh nghiệp trong nước, thưa ông?

Ông Phạm Xuân Hồng: Doanh nghiệp FDI ở lĩnh vực may mặc ngày càng nhiều và áp đảo sản xuất trong nước. Tỷ lệ doanh nghiệp FDI trong ngành dệt may chiếm trên 60%. Tình trạng chuyển giá, báo lỗ, trốn thuế vẫn chưa được giải quyết triệt để đã tạo sự cạnh tranh không công bằng của FDI với doanh nghiệp Việt ngay trên sân nhà. Có thể thấy, phần lớn doanh nghiệp FDI không báo lãi nhiều. Những năm trước là báo lỗ. Một vài năm gần đây khi Cục Thuế báo động quá thì họ điều chỉnh lại từ lỗ sang huề vốn. Làm so sánh đơn giản, một doanh nghiệp may trong nước lãi 70 tỉ đồng/năm thì phải đóng thuế 15-18 tỉ đồng, trong khi doanh nghiệp FDI cùng quy mô nhưng báo lỗ, không đóng đồng thuế nào cả thì rõ ràng là thua thiệt cho doanh nghiệp Việt.

Các cơ quan quản lý của nước ta kiểm soát không tốt nên mới có chuyện doanh nghiệp FDI chuyển giá, báo lỗ nhiều như thế. Đáng lý, doanh nghiệp nào lỗ 2 năm liên tiếp thì không cho đầu tư thêm nữa. Chứ tại sao doanh nghiệp lỗ mà vẫn cho phép mở rộng? Chúng ta thu hút FDI nhằm mục đích giải quyết công ăn việc làm cho người lao động và có phần đóng góp về cho ngân sách Nhà nước. Nhưng thực tế, giá lao động nước ta rẻ hơn nhiều nước trong khu vực thì đây là lợi thế để FDI tận dụng thu lợi về cho họ. Trong khi đó, FDI lại báo lỗ, không thu được thuế thì thu hút đầu tư làm gì. Đó là chưa kể chúng ta còn phải gánh chịu một lượng chất thải công nghiệp thải ra môi trường.

Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp trong Hội cũng phản ảnh chuyện các doanh nghiệp FDI chia nhỏ bậc lương công nhân hơn so với doanh nghiệp Việt của ta. Do đó, họ đóng bảo hiểm xã hội cho công nhân thấp hơn, cũng tạo ra sự bất bình đẳng. Các cơ quan quản lý nên giám sát, làm rõ tình trạng này.

PV: Theo phân tích của các chuyên gia kinh tế thì FDI đổ vốn mạnh vào ngành dệt may để đón lõng Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Theo ông, hiệp định này sẽ đem lại lợi ích như thế nào cho ngành dệt may nước ta?

Ông Phạm Xuân Hồng: Trên lý thuyết thì TPP sẽ mang lại rất nhiều lợi thế cho ngành dệt may, đặc biệt là thuế suất ưu đãi vào thị trường các nước tham gia TPP. Tuy nhiên, chắc gì sau khi TPP có hiệu lực thì chúng ta khai thác được nhiều lợi thế từ hiệp định này bởi muốn được hưởng thuế suất ưu đãi thì nguyên phụ liệu sản xuất phải từ các nước trong TPP. Đó còn là thách thức bởi hiện nay trong nước chưa cung cấp đầy đủ nguyên phụ liệu mà phần lớn nhập khẩu, trong đó có nhập từ Trung Quốc, mà Trung Quốc không tham gia TPP. Cụ thể, tại TP HCM nguồn nguyên phụ liệu trong nước chỉ đáp ứng khoảng 30% cho ngành dệt may xuất khẩu, còn lại phải nhập khẩu, trong đó nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm khoảng 50%.

PV: Với Hiệp định TPP, giữa FDI và doanh nghiệp Việt ai được hưởng lợi nhiều hơn, thưa ông?

Ông Phạm Xuân Hồng: Thực sự nếu nói về TPP thì lợi thế của FDI và doanh nghiệp trong nước không khác gì lắm. Vì FDI cũng nhập nguyên liệu, doanh nghiệp Việt cũng nhập nguyên liệu. Chỉ có khác ở chỗ nếu doanh nghiệp nào đang khai thác được nhiều nguyên liệu từ các nước trong TPP thì sẽ có lợi thế hơn. Còn những doanh nghiệp chỉ mua nguyên liệu từ Trung Quốc sẽ không được hưởng ưu đãi thuế suất.

PV: Vừa qua, Hội đồng Tiền lương Quốc gia đã đề xuất Chính phủ tăng lương tối thiểu vùng năm 2015 lên 15,1% so với năm 2014. Chính sách tăng lương tối thiểu sẽ ảnh hưởng đến ngành dệt may như thế nào, thưa ông?

Ông Phạm Xuân Hồng: Theo tôi biết, hầu hết các doanh nghiệp dệt may đã trả lương thực tế cao hơn lương tối thiểu khá nhiều, bởi nếu cứ trả theo đúng lương tối thiểu thì rất khó để giữ lao động. Vì thị trường lao động cũng có sự cạnh tranh, ai trả thấp, người lao động sẽ bỏ việc. Nhưng như đã nói trên, bảng lương của doanh nghiệp Việt thường được xây dựng cao hơn so với FDI, cho nên khi lương tối thiểu tăng, chi phí mà doanh nghiệp Việt phải đóng sẽ cao hơn doanh nghiệp FDI. Các doanh nghiệp dệt may cũng đã ý thức vai trò của người lao động trong sự phát triển của mình bởi đây là ngành sử dụng nhiều lao động, nhưng giải quyết mâu thuẫn giữa chi phí sản xuất và đời sống người lao động sẽ là thách thức không nhỏ đối với doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ.

PV: Có thông tin, gần đây doanh nghiệp dệt may thiếu đơn hàng. Tình trạng này có không, thưa ông?

Ông Phạm Xuân Hồng: Nhìn chung các doanh nghiệp dệt may đã có kế hoạch sản xuất đến cuối năm, đặc biệt có một số doanh nghiệp có kế hoạch sản xuất đến giữa năm 2015. Nhưng vẫn còn một số doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ, kế hoạch sản xuất chưa ổn định, có thời điểm thiếu nhưng cũng không nhiều. Hội Dệt may thêu đan TP HCM khuyến khích các doanh nghiệp đưa thông tin sản xuất về cho hội để hội có biện pháp liên kết doanh nghiệp cùng hỗ trợ lẫn nhau vượt qua khó khăn, đẩy mạnh sản xuất. Trong tình hình hiện nay làm may mặc cũng không có lợi nhuận bao nhiêu, vì phần lớn vẫn là làm gia công, giá trị gia tăng không cao, nhưng nhìn cơ bản trong hoàn cảnh khó khăn chung của nền kinh tế thì ngành may vẫn tương đối ổn định.

PV: Xin cảm ơn ông!

Mai Phương (thực hiện)

 

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 117,700 ▲900K 119,700 ▲900K
AVPL/SJC HCM 117,700 ▲900K 119,700 ▲900K
AVPL/SJC ĐN 117,700 ▲900K 119,700 ▲900K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,850 ▲50K 11,300 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 10,840 ▲50K 11,290 ▲50K
Cập nhật: 12/06/2025 13:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.200 ▲1200K 115.800 ▲1000K
TPHCM - SJC 117.700 ▲900K 119.700 ▲900K
Hà Nội - PNJ 113.200 ▲1200K 115.800 ▲1000K
Hà Nội - SJC 117.700 ▲900K 119.700 ▲900K
Đà Nẵng - PNJ 113.200 ▲1200K 115.800 ▲1000K
Đà Nẵng - SJC 117.700 ▲900K 119.700 ▲900K
Miền Tây - PNJ 113.200 ▲1200K 115.800 ▲1000K
Miền Tây - SJC 117.700 ▲900K 119.700 ▲900K
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.200 ▲1200K 115.800 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - SJC 117.700 ▲900K 119.700 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.200 ▲1200K
Giá vàng nữ trang - SJC 117.700 ▲900K 119.700 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.200 ▲1200K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.200 ▲1200K 115.800 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.200 ▲1200K 115.800 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.500 ▲1000K 115.000 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.390 ▲1000K 114.890 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.680 ▲990K 114.180 ▲990K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.450 ▲990K 113.950 ▲990K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 78.900 ▲750K 86.400 ▲750K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.930 ▲590K 67.430 ▲590K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.490 ▲420K 47.990 ▲420K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 102.940 ▲920K 105.440 ▲920K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.800 ▲610K 70.300 ▲610K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.400 ▲650K 74.900 ▲650K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.850 ▲680K 78.350 ▲680K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.780 ▲380K 43.280 ▲380K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.600 ▲330K 38.100 ▲330K
Cập nhật: 12/06/2025 13:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,190 ▲80K 11,640 ▲100K
Trang sức 99.9 11,180 ▲80K 11,630 ▲100K
NL 99.99 10,785 ▲50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,785 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,400 ▲80K 11,700 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,400 ▲80K 11,700 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,400 ▲80K 11,700 ▲100K
Miếng SJC Thái Bình 11,770 ▲90K 11,970 ▲90K
Miếng SJC Nghệ An 11,770 ▲90K 11,970 ▲90K
Miếng SJC Hà Nội 11,770 ▲90K 11,970 ▲90K
Cập nhật: 12/06/2025 13:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16389 16657 17233
CAD 18529 18806 19425
CHF 31238 31617 32269
CNY 0 3530 3670
EUR 29370 29641 30671
GBP 34518 34910 35839
HKD 0 3185 3387
JPY 174 178 184
KRW 0 17 19
NZD 0 15404 15993
SGD 19775 20056 20583
THB 718 781 834
USD (1,2) 25762 0 0
USD (5,10,20) 25801 0 0
USD (50,100) 25829 25863 26205
Cập nhật: 12/06/2025 13:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,840 25,840 26,200
USD(1-2-5) 24,806 - -
USD(10-20) 24,806 - -
GBP 34,922 35,017 35,902
HKD 3,256 3,266 3,365
CHF 31,460 31,558 32,353
JPY 177.53 177.85 185.35
THB 764.07 773.51 828.1
AUD 16,666 16,727 17,192
CAD 18,732 18,792 19,346
SGD 19,899 19,961 20,623
SEK - 2,683 2,776
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,951 4,087
NOK - 2,546 2,636
CNY - 3,569 3,666
RUB - - -
NZD 15,358 15,501 15,951
KRW 17.57 18.32 19.79
EUR 29,559 29,583 30,803
TWD 787.56 - 953.48
MYR 5,758.64 - 6,497.68
SAR - 6,821.17 7,179.58
KWD - 82,805 88,072
XAU - - -
Cập nhật: 12/06/2025 13:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,845 25,855 26,195
EUR 29,385 29,503 30,619
GBP 34,720 34,859 35,854
HKD 3,251 3,264 3,369
CHF 31,286 31,412 32,328
JPY 176.51 177.22 184.58
AUD 16,599 16,666 17,200
SGD 19,956 20,036 20,584
THB 781 784 819
CAD 18,715 18,790 19,318
NZD 15,464 15,971
KRW 18.30 20.17
Cập nhật: 12/06/2025 13:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25835 25835 26190
AUD 16560 16660 17228
CAD 18682 18782 19339
CHF 31446 31476 32369
CNY 0 3581.4 0
CZK 0 1150 0
DKK 0 3978 0
EUR 29622 29722 30502
GBP 34841 34891 36007
HKD 0 3320 0
JPY 177.32 178.32 184.85
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6350 0
NOK 0 2580 0
NZD 0 15490 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2706 0
SGD 19892 20022 20753
THB 0 745.5 0
TWD 0 867 0
XAU 11350000 11350000 12000000
XBJ 10000000 10000000 12000000
Cập nhật: 12/06/2025 13:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,840 25,890 26,135
USD20 25,840 25,890 26,135
USD1 25,840 25,890 26,135
AUD 16,580 16,730 17,796
EUR 29,635 29,785 30,963
CAD 18,624 18,724 20,040
SGD 19,965 20,115 20,720
JPY 177.63 179.13 183.83
GBP 34,896 35,046 35,836
XAU 11,768,000 0 11,972,000
CNY 0 3,468 0
THB 0 782 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 12/06/2025 13:45