Nguồn nhân lực Logistics: Thiếu và yếu

13:31 | 23/12/2017

711 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Dịch vụ Logistics hình thành và phát triển ở nước ta hơn 40 năm, nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Cơ sở hạ tầng giao thông, thương mại, công nghệ thông tin còn yếu kém, chưa kết nối được với các nước trong khu vực, nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu…

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Ngày 15-12-2017, tại Hà Nội, Bộ Công Thương, Bộ Giao thông Vận tải, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, Thời báo Kinh tế Việt Nam và Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam đã tổ chức Diễn đàn Logistics Việt Nam 2017 với chủ đề: “Nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ Logistics Việt Nam”.

nguon nhan luc logistics thieu va yeu
Để phát triển ngành Logistics cần phải chú trọng đào tạo nguồn nhân lực

Tại diễn đàn, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh cho rằng, sự phát triển Logistics ở nước ta thời gian qua đã có những đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế, mở rộng và phát triển thị trường quốc tế, nâng cao mức hưởng thụ của người tiêu dùng cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước. Đồng thời, các cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính cũng được các bộ, ngành quan tâm, cải thiện môi trường thông thoáng, thuận lợi cho các DN hoạt động trong lĩnh vực Logistics.

Bộ trưởng Bộ Công Thương đề nghị tập trung thảo luận 4 vấn đề chính, mà một trong số đó là kiến nghị, đề xuất các giải pháp nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và phong cách làm việc chuyên nghiệp trong hoạt động Logistics, sẵn sàng thích ứng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Ông Lê Duy Hiệp - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam cho biết: Ngày 14-2-2017, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 200/QĐ-TTg thông qua Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ Logistics Việt Nam đến năm 2025. Mục tiêu đến năm 2025, tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ Logistics vào GDP đạt 8-10%.

Nói về những khó khăn mà các DN Logistics đang gặp phải, Phó tổng giám đốc Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam Lê Quang Trung chia sẻ: “Trong nhiều năm qua, Logistics của nước ta, đặc biệt trong lĩnh vực hàng hải đã có những sự chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, chúng tôi đánh giá sự phát triển này chưa tương xứng với tiềm năng của Việt Nam, còn nhiều lợi thế chưa được tận dụng. Những hạn chế chủ yếu nằm ở hạ tầng, áp dụng công nghệ cải tiến chất lượng dịch vụ và đặc biệt là nguồn nhân lực. Trong những năm qua, đã có nhiều cán bộ được đào tạo bài bản trong các ngành đặc thù như khai thác cảng, kho bãi… nhưng để khai thác hiệu quả Logistics cần phải gia tăng hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực”.

Cần có sự liên kết và chia sẻ

Liên quan đến vấn đề này, PGS.TS Đào Văn Đông - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải cho biết: “Hiện nay, nước ta cần cung cấp 18.000-20.000 người phục vụ cho lĩnh vực dịch vụ Logistics. Tuy nhiên, năng lực đào tạo của các trường đại học chưa đáp ứng được với yêu cầu phát triển. Một trong những điểm mà chúng ta cần phải tìm ra giải pháp đó là phát triển kinh tế kỹ thuật gắn liền với công nghệ thông tin. Nguồn nhân lực của nước ta đã tiếp cận nhưng chưa đủ sức để có thể đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số. Lĩnh vực Logistics cũng đang gặp phải tình trạng tương tự, chúng ta có chuyên môn nhưng áp dụng công nghệ thông tin phù hợp với cách mạng công nghiệp 4.0 thì chưa đủ”.

Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải đang đào tạo 5 lĩnh vực vận tải bao gồm: đường bộ, đường sắt, đường không, đường biển và đường thủy nội địa. Nhà trường cũng đang liên kết với các đơn vị đào tạo Logistics trong lĩnh vực hàng không và đường biển.

Một trong những vấn đề về đào tạo nguồn nhân lực cho Logistics đang gặp phải là vấn đề thông tin đến với người học. Lĩnh vực này mặc dù đang có nhu cầu nhân lực cao, nhưng giới trẻ chưa được biết nhiều thông tin về nhu cầu nguồn nhân lực đang thiếu hụt. Bản thân các trường phải truyền thông rộng rãi để giới trẻ biết đến nhu cầu nguồn nhân lực và cơ hội việc làm rất tốt đến với họ trong lĩnh vực Logistics.

Theo dự báo, mỗi năm nước ta cần khoảng 20.000 người phục vụ trong lĩnh vực Logistics, đây là con số không hề nhỏ đối với năng lực đào tạo của chúng ta. Và bản thân đội ngũ giảng viên đào tạo lĩnh vực này cũng chưa thực sự đủ mạnh. “Tôi mong muốn rằng, các trường đại học đào tạo về logistics cần liên kết, chia sẻ khả năng đào tạo. Đồng thời, đào tạo về nguồn nhân lực này đòi hỏi tính thực tế cao, ứng dụng thực tế nhiều nên việc mời gọi các DN có kinh nghiệm thực tế tham gia vào quá trình đào tạo cũng là yếu tố then chốt nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho linh vực này” - Hiệu trưởng trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải nhấn mạnh.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc: Cải thiện Logistics để phát triển ngành rau củ quả

Chiều 18-12, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đến dự Diễn đàn “Phát triển thị trường cho ngành rau, củ, quả và giải pháp phát triển hệ thống Logistics phục vụ nông nghiệp, nông thôn” do tỉnh Đồng Tháp và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức.

Tại đây, Thủ tướng yêu cầu tỉnh Đồng Tháp và các cơ quan liên quan đổi mới tư duy, nhận thức trong việc phát triển thị trường và sản xuất hàng hóa, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào bảo quản, chế biến, xúc tiến thương mại, tận dụng thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0.

Cần cải thiện nhanh chóng hơn dịch vụ Logistics trong chuỗi giá trị ngành hàng rau củ quả nói riêng và nông sản nói chung. Không thể tiếp tục sản xuất manh mún mà phải có cách làm mới, bài bản hơn cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, trong đó có việc giảm chi phí vận tải, làm tốt nhất dịch vụ Logistics, nâng cao tính kết nối hiệu quả giữa sản xuất và thị trường, giảm được các chi phí thương mại, hạ giá thành sản xuất.

Mỹ Hạnh - Thiên Minh

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC HCM 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC ĐN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Nguyên liệu 9999 - HN 74,200 ▲950K 75,150 ▲950K
Nguyên liệu 999 - HN 74,100 ▲950K 75,050 ▲950K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Cập nhật: 26/04/2024 16:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
TPHCM - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Hà Nội - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
Hà Nội - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Đà Nẵng - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
Đà Nẵng - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Miền Tây - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
Miền Tây - SJC 83.000 ▲1000K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.450 ▲450K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.450 ▲450K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.400 ▲500K 74.200 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.400 ▲370K 55.800 ▲370K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.160 ▲290K 43.560 ▲290K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.620 ▲210K 31.020 ▲210K
Cập nhật: 26/04/2024 16:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,365 ▲60K 7,570 ▲60K
Trang sức 99.9 7,355 ▲60K 7,560 ▲60K
NL 99.99 7,360 ▲60K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,340 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,430 ▲60K 7,600 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,430 ▲60K 7,600 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,430 ▲60K 7,600 ▲60K
Miếng SJC Thái Bình 8,300 ▲70K 8,510 ▲80K
Miếng SJC Nghệ An 8,300 ▲70K 8,510 ▲80K
Miếng SJC Hà Nội 8,300 ▲70K 8,510 ▲80K
Cập nhật: 26/04/2024 16:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 ▲1000K 85,200 ▲900K
SJC 5c 83,000 ▲1000K 85,220 ▲900K
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 ▲1000K 85,230 ▲900K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,700 ▲600K 75,400 ▲600K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,700 ▲600K 75,500 ▲600K
Nữ Trang 99.99% 73,600 ▲700K 74,600 ▲600K
Nữ Trang 99% 71,861 ▲594K 73,861 ▲594K
Nữ Trang 68% 48,383 ▲408K 50,883 ▲408K
Nữ Trang 41.7% 28,761 ▲250K 31,261 ▲250K
Cập nhật: 26/04/2024 16:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,112.17 16,274.92 16,797.08
CAD 18,090.44 18,273.17 18,859.45
CHF 27,072.22 27,345.68 28,223.04
CNY 3,429.67 3,464.31 3,576.00
DKK - 3,579.44 3,716.52
EUR 26,496.28 26,763.92 27,949.19
GBP 30,880.63 31,192.55 32,193.34
HKD 3,156.04 3,187.92 3,290.20
INR - 303.48 315.61
JPY 157.98 159.58 167.21
KRW 15.95 17.72 19.33
KWD - 82,209.56 85,496.44
MYR - 5,249.99 5,364.51
NOK - 2,265.53 2,361.72
RUB - 261.73 289.74
SAR - 6,740.29 7,009.77
SEK - 2,281.68 2,378.56
SGD 18,179.62 18,363.26 18,952.42
THB 605.24 672.49 698.24
USD 25,118.00 25,148.00 25,458.00
Cập nhật: 26/04/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,326 16,426 16,876
CAD 18,311 18,411 18,961
CHF 27,324 27,429 28,229
CNY - 3,456 3,566
DKK - 3,595 3,725
EUR #26,718 26,753 28,013
GBP 31,293 31,343 32,303
HKD 3,161 3,176 3,311
JPY 158.32 158.32 166.27
KRW 16.62 17.42 20.22
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,271 2,351
NZD 14,848 14,898 15,415
SEK - 2,281 2,391
SGD 18,174 18,274 19,004
THB 632.55 676.89 700.55
USD #25,125 25,125 25,458
Cập nhật: 26/04/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 26/04/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25130 25130 25450
AUD 16368 16418 16921
CAD 18357 18407 18862
CHF 27515 27565 28127
CNY 0 3460.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26927 26977 27679
GBP 31415 31465 32130
HKD 0 3140 0
JPY 159.62 160.12 164.63
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0321 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14889 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18414 18464 19017
THB 0 644.8 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8430000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 26/04/2024 16:00