"Phép màu" tăng trưởng của Trung Quốc đã kết thúc?

08:16 | 05/06/2023

168 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Kỷ nguyên tăng trưởng thần tốc của Trung Quốc được cho là đã chấm dứt. Các khoản nợ ngày càng gia tăng, chi tiêu tiêu dùng suy giảm và căng thẳng trong quan hệ với phương Tây đã khiến đà phục hồi hậu Covid-19 của đất nước tỷ dân đang chững lại.
"Phép màu" tăng trưởng của Trung Quốc đã kết thúc?

Sự phục hồi đáng thất vọng

Chỉ vài tháng trước, triển vọng kinh tế Trung Quốc vẫn còn khả quan, khi chính quyền Bắc Kinh dỡ bỏ các biện pháp kiểm soát dịch, người dân đẩy mạnh chi tiêu, ăn uống, du lịch sau thời gian dài bị hạn chế. Nhưng ngay khi sự hưng phấn của đợt mở cửa trở lại qua đi, những vấn đề tiềm ẩn suốt nhiều năm qua của nền kinh tế lại bắt đầu trỗi dậy.

Phép màu tăng trưởng của Trung Quốc đã kết thúc? - 1
Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc được dự báo sẽ chậm lại trong những năm tiếp theo (Ảnh: IMF).

Bong bóng bất động sản cùng với những khoản đầu tư quá mức của chính phủ từng là động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế. Tất cả đang chững lại.

Những khoản nợ khổng lồ đang làm tê liệt khả năng chi tiêu của chính quyền địa phương. Một số hộ gia đình cũng đã lựa chọn tích lũy tiền mặt thay vì tiêu dùng do lo ngại về tương lai.

Việc chính phủ thắt chặt kiểm soát các doanh nghiệp tư nhân trước đây cũng khiến giới doanh nghiệp không dám chấp nhận rủi ro, trong khi quan hệ với phương Tây xấu đi cũng làm giảm các khoản đầu tư nước ngoài.

Giới chuyên gia cho rằng các vấn đề mang tính cấu trúc này đang cản trở cơ hội kéo dài "phép màu" tăng trưởng của Trung Quốc.

Trong một thập kỷ vừa qua, Trung Quốc duy trì tăng trưởng hàng năm ở mức 6-8%. Con số này sẽ sớm giảm xuống chỉ còn 2-3%. Dân số già hóa, lực lượng lao động thu hẹp càng làm phức tạp thêm khó khăn của nước này.

Trung Quốc có thể đóng góp ít hơn cho đà tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong năm nay và thấp hơn kỳ vọng của nhiều lãnh đạo doanh nghiệp. Không chỉ vậy, điều này còn khiến cho Trung Quốc kém hấp dẫn hơn với một số công ty nước ngoài, và khó có khả năng để vượt Mỹ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới.

"Đà tăng trưởng đáng thất vọng của Trung Quốc thực sự cho thấy những lực cản mang tính cấu trúc đã xuất hiện", ông Frederic Neumann, trưởng bộ phận kinh tế của HSBC châu Á, nhận định.

Động lực tăng trưởng yếu

Nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng 4,5% trong quý đầu năm nay, được thúc đẩy bởi việc Bắc Kinh dỡ bỏ các hạn chế Covid-19. Nhưng những tín hiệu gần đây cho thấy đà phục hồi đang giảm nhanh.

Tăng trưởng bán lẻ trong tháng 4 chỉ tăng 0,5% so với tháng trước đó. Hàng loạt dữ liệu sản xuất công nghiệp, xuất khẩu và đầu tư đều thấp hơn so với kỳ vọng của các chuyên gia kinh tế.

Hơn 20% số người trẻ trong độ tuổi 16-24 ở Trung Quốc thất nghiệp trong tháng 4 năm nay. Hai gã khổng lồ thương mại điện tử là Alibaba và Jingdong vừa công bố báo cáo doanh thu ảm đạm trong quý đầu năm. Chỉ số chứng khoán Hang Seng của các doanh nghiệp Trung Quốc giảm 5,2% từ đầu năm đến nay, trong khi đồng Nhân dân tệ đang yếu đi so với đồng USD.

Phép màu tăng trưởng của Trung Quốc đã kết thúc? - 2
Nợ của Trung Quốc tăng mạnh trong những năm đại dịch (Ảnh: WSJ).

Phần lớn giới chuyên gia tin rằng những vấn đề hiện hữu của Trung Quốc sẽ không dẫn tới suy thoái, hay ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng 5% trong năm nay. Bởi đây là con số mục tiêu được đánh giá là dễ hoàn thành trên nền thấp của năm 2022.

McDonald's và Starbucks cho hay họ sẽ mở thêm hàng trăm nhà hàng mới ở Trung Quốc, trong khi các hãng bán lẻ, như Ralph Lauren, cũng có động thái tương tự.

Sự bùng nổ trong sản xuất xe điện cho phép Trung Quốc vượt qua Nhật Bản để trở thành nước xuất khẩu xe lớn nhất thế giới trong quý đầu năm 2023. Chính sách công nghiệp và năng lực sản xuất của Trung Quốc cho thấy họ vẫn đang nỗ lực để vượt qua các quốc gia khác trong một số ngành công nghiệp chính.

"Chúng tôi vẫn có niềm tin vào triển vọng kinh tế của Trung Quốc trong dài hạn", ông Phillip Wool, giám đốc nghiên cứu của công ty quản lý tài sản Rayliant Global Advisors, nhận định khi trả lời WSJ. Ông cũng cho rằng Trung Quốc có thể vượt qua khó khăn nếu người dân chi tiêu nhiều hơn, thay vì tiếp tục phụ thuộc vào xuất khẩu.

Người dân hạn chế chi tiêu

Tuy nhiên, có nhiều chuyên gia bày tỏ sự lo ngại về tương lai của Trung Quốc. Trong bối cảnh đầu tư nước ngoài và xuất khẩu suy yếu, hy vọng lớn nhất của Trung Quốc trong năm nay là người tiêu dùng trong nước sẽ tăng chi tiêu.

Mặc dù người dân đang chi tiêu nhiều hơn sau 3 năm đại dịch Covid-19, nhưng Trung Quốc đang không có được sự tăng trưởng đột phá như các nền kinh tế khác sau khi khôi phục trạng thái bình thường.

Phép màu tăng trưởng của Trung Quốc đã kết thúc? - 3
Chi tiêu hộ gia đình tính theo tỷ trọng GDP của Trung Quốc thấp hơn nhiều quốc gia (Ảnh: WSJ).

Niềm tin của người tiêu dùng Trung Quốc hiện ở mức thấp. Đáng lo ngại hơn, chính phủ Trung Quốc không thể thuyết phục người tiêu dùng chi tiêu nhiều hơn thay vì tiết kiệm. Chi tiêu hộ gia đình chỉ chiếm khoảng 38% tăng trưởng GDP hàng năm của Trung Quốc, trong khi ở Mỹ là 68%.

"Đà tăng trưởng dựa vào người tiêu dùng luôn là một mục tiêu tham vọng đối với Trung Quốc. Lúc này, thậm chí còn là mục tiêu khó đạt được hơn khi người tiêu dùng đang tỏ ra thận trọng hơn sau đại dịch", bà Louise Loo, chuyên gia tại Oxford Economics nhận định với WSJ.

Mặc dù chính quyền đã nới lỏng các quy định cho vay, nhưng dữ liệu mới cho thấy các hộ gia đình Trung Quốc đang ưu tiên trả hết các khoản nợ hơn là đi vay mới.

Những khoản nợ khổng lồ

Các khoản nợ lớn đang là đám mây che phủ lên nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới. Trong giai đoạn 2012-2022, nợ công của Trung Quốc tăng thêm 37.000 tỷ USD, trong khi Mỹ chỉ thêm 25.000 tỷ USD.

Tính đến tháng 6/2022, khoản nợ mà Trung Quốc phải gánh là 52.000 tỷ USD, cao hơn nợ của tất cả nền kinh tế mới nổi cộng lại. Tính tại tháng 9 năm ngoái, tổng nợ tính theo tỷ trọng GDP của Trung Quốc đạt 295%, trong khi ở Mỹ chỉ là 257%.

Phép màu tăng trưởng của Trung Quốc đã kết thúc? - 4
Nhiều địa phương đang có nguy cơ vi phạm các mức trần nợ công mà Bắc Kinh đặt ra (Ảnh: IT).

Trung Quốc coi nợ là một mối đe dọa đối với ổn định của hệ thống tài chính, vì thế ngay từ 2016, giảm nợ đã trở thành trọng tâm của chính sách kinh tế.

Để giảm bớt bong bóng nhà đất, từ cuối 2020, các cơ quan quản lý đã siết chặt tín dụng cấp cho các công ty bất động sản. Đầu tư phát triển bất động sản đã giảm 5,8% trong quý đầu năm nay bất chấp nhiều hạn chế được nới lỏng để cứu vãn thị trường bất động sản.

Theo S&P Global, khoảng 2/3 chính quyền địa phương đang có nguy cơ vi phạm các mức trần nợ công mà Bắc Kinh đặt ra. Nhiều thành phố trên khắp cả nước, từ Thâm Quyến cho đến Thành Đô, đã phải cắt giảm phúc lợi cho công chức nhà nước, một số nơi thậm chí chậm trả lương giáo viên.

Nước ngoài giảm đầu tư

Những vấn đề này càng trở nên trầm trọng khi Trung Quốc đang ngày càng kém hấp dẫn hơn trong mắt nhà đầu tư nước ngoài trong bối cảnh căng thẳng với phương Tây gia tăng.

Dữ liệu cho thấy, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Trung Quốc đã giảm 48% trong năm 2022, chỉ còn 180 tỷ USD. Trong khi đó, FDI tính theo tỷ trọng GDP cũng giảm xuống còn dưới 2%, từ mức cao hơn gấp đôi cách đây 10 năm.

Sự cạnh tranh thu hút vốn đầu tư với các nước láng giềng như Ấn Độ và Việt Nam càng nóng hơn trong bối cảnh các công ty quốc tế tìm cách đa dạng hóa chuỗi cung ứng nhằm giảm thiểu rủi ro gián đoạn nếu xung đột Mỹ - Trung nổ ra.

Ông Jens Eskelund, Chủ tịch Phòng thương mại EU tại Trung Quốc, cho biết triển vọng kinh tế bấp bênh là một trong những lý do gây ảnh hưởng tới quyết định đầu tư của các công ty nước ngoài.

Phép màu tăng trưởng của Trung Quốc đã kết thúc? - 5
Trung Quốc đang ngày càng kém hấp dẫn hơn trong mắt nhà đầu tư nước ngoài (Ảnh: IT).

Những cải cách nhằm thúc đẩy hoạt động sản xuất ở khu vực tư nhân cũng đã chững lại. Trước đó, chính quyền Bắc Kinh đã thắt chặt quản lý nhiều lĩnh vực, bao gồm công nghệ, giáo dục tư nhân và bất động sản, khiến cho nhiều chủ doanh nghiệp không dám đầu tư mới.

Trong 4 tháng đầu năm 2023, đầu tư tài sản cố định của các doanh nghiệp tư nhân chỉ tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước, con số này từng là 5,5% năm 2019.

Các chuyên cũng đang tranh cãi rằng liệu các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc có tung thêm gói kích thích tài chính như đã từng làm trong năm 2008 và 2015 hay không. Công ty tài chính Citigroup tin rằng ngân hàng trung ương Trung Quốc sẽ hạ lãi suất trong những tháng tới để vực dậy tâm lý. Nhưng nhiều người cũng cho rằng Bắc Kinh chưa tung ra gói kích thích là do lo lắng về khoản nợ vốn đã ở mức cao, và không chắc chắn rằng gói kích thích có thể làm tăng nhu cầu tín dụng.

Theo Dân trí

Nền kinh tế Trung Quốc năm 2023 sẽ rất khác trước đại dịchNền kinh tế Trung Quốc năm 2023 sẽ rất khác trước đại dịch
Kinh tế Trung Quốc: Kinh tế Trung Quốc: "Lung lay" trụ cột tiêu dùng
Trung Quốc hoài nghi về triển vọng phục hồiTrung Quốc hoài nghi về triển vọng phục hồi

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 120,000 122,000
AVPL/SJC HCM 120,000 122,000
AVPL/SJC ĐN 120,000 122,000
Nguyên liệu 9999 - HN 11,170 11,450
Nguyên liệu 999 - HN 11,160 11,440
Cập nhật: 11/05/2025 12:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.000 116.600
TPHCM - SJC 120.000 122.000
Hà Nội - PNJ 114.000 116.600
Hà Nội - SJC 120.000 122.000
Đà Nẵng - PNJ 114.000 116.600
Đà Nẵng - SJC 120.000 122.000
Miền Tây - PNJ 114.000 116.600
Miền Tây - SJC 120.000 122.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - SJC 120.000 122.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.000
Giá vàng nữ trang - SJC 120.000 122.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.000 116.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.880 116.380
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.170 115.670
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.940 115.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.030 87.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.800 68.300
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.110 48.610
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.310 106.810
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.720 71.220
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.380 75.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.870 79.370
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.340 43.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.100 38.600
Cập nhật: 11/05/2025 12:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,290 11,740
Trang sức 99.9 11,280 11,730
NL 99.99 11,100
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,100
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,500 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,500 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,500 11,800
Miếng SJC Thái Bình 12,000 12,200
Miếng SJC Nghệ An 12,000 12,200
Miếng SJC Hà Nội 12,000 12,200
Cập nhật: 11/05/2025 12:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16118 16385 16969
CAD 18096 18371 18995
CHF 30572 30948 31621
CNY 0 3358 3600
EUR 28572 28839 29883
GBP 33740 34129 35080
HKD 0 3207 3411
JPY 171 176 182
KRW 0 17 19
NZD 0 15024 15625
SGD 19454 19734 20278
THB 703 766 820
USD (1,2) 25699 0 0
USD (5,10,20) 25738 0 0
USD (50,100) 25766 25800 26155
Cập nhật: 11/05/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,800 25,800 26,160
USD(1-2-5) 24,768 - -
USD(10-20) 24,768 - -
GBP 33,951 34,043 34,943
HKD 3,282 3,292 3,391
CHF 30,810 30,906 31,767
JPY 175.11 175.43 183.25
THB 749.74 759 812.07
AUD 16,397 16,456 16,901
CAD 18,405 18,464 18,964
SGD 19,652 19,713 20,338
SEK - 2,632 2,724
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,849 3,981
NOK - 2,452 2,538
CNY - 3,548 3,644
RUB - - -
NZD 14,981 15,120 15,554
KRW 17.19 17.93 19.27
EUR 28,755 28,778 30,006
TWD 777.95 - 941.86
MYR 5,633.75 - 6,359.66
SAR - 6,810.25 7,168.24
KWD - 82,426 87,642
XAU - - -
Cập nhật: 11/05/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,780 25,790 26,130
EUR 28,557 28,672 29,776
GBP 33,746 33,882 34,851
HKD 3,275 3,288 3,394
CHF 30,669 30,792 31,690
JPY 173.90 174.60 181.74
AUD 16,260 16,325 16,854
SGD 19,615 19,694 20,232
THB 763 766 800
CAD 18,311 18,385 18,897
NZD 15,042 15,549
KRW 17.63 19.42
Cập nhật: 11/05/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25785 25785 26145
AUD 16257 16357 16925
CAD 18304 18404 18957
CHF 30785 30815 31712
CNY 0 3549.6 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28845 28945 29720
GBP 33935 33985 35098
HKD 0 3355 0
JPY 175.09 176.09 182.64
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15080 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19610 19740 20471
THB 0 730.9 0
TWD 0 845 0
XAU 12000000 12000000 12150000
XBJ 12000000 12000000 12150000
Cập nhật: 11/05/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,780 25,830 26,170
USD20 25,780 25,830 26,170
USD1 25,780 25,830 26,170
AUD 16,311 16,461 17,531
EUR 28,899 29,049 30,224
CAD 18,245 18,345 19,662
SGD 19,685 19,835 20,311
JPY 175.65 177.15 181.84
GBP 34,012 34,162 34,952
XAU 11,649,000 0 12,051,000
CNY 0 3,432 0
THB 0 766 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 11/05/2025 12:00