Nhật ký tỉ giá giữa hai nhiệm kỳ Thống đốc

11:24 | 20/12/2011

477 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Đọc lại nhật ký các mốc sự kiện của tỉ giá USD/VND, hơi thở của những biến động quãng chuyển giao hai nhiệm kỳ Thống đốc NHNN vẫn còn nóng…

Ngày 29/4/2011 trở thành mốc sự kiện quan trọng cho quãng bình yên của tỉ giá về sau...

Với người theo dõi biến động tỉ giá, có lẽ thói quen chung là tự lập cho mình một nhật ký các dữ kiện. Cuối năm, giở lại sẽ có thêm góc nhìn cho một quá trình.

Là nhật ký, nó có những nhận định bên lề mà không hẳn đều có thể đưa lên báo theo thời gian thực; nhưng lúc này, là cần thiết để nhìn lại một cách công bằng và toàn diện hơn.

Năm 2011 khá đặc biệt, gắn với sự chuyển giao giữa hai nhiệm kỳ Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Về hình thức biến động của tỉ giá, năm 2011 như được chia thành hai nửa đối lập: nửa căng thẳng với “cú” phá giá mạnh chưa từng có trong lịch sử và nửa bình yên với cam kết “nếu điều chỉnh không quá 1%”.

Trước hết, năm 2011 được bắt đầu bằng sự leo thang của tỉ giá USD/VND trên thị trường tự do, mà gốc rễ bắt nguồn từ sự chuyển giao cũng khá đặc biệt trong năm 2010…

Ngày 17/8/2010, Ngân hàng Nhà nước đột ngột tăng tỉ giá USD/VND thêm 2,1%. Đột ngột khi giới quan sát cho rằng áp lực lúc đó là chưa rõ ràng, chênh lệch giữa tỉ giá chính thức và tự do vẫn ở mức thấp với khoảng 500 VND. Một số lý giải nhìn nhận ở bước đi chủ động của nhà điều hành nhằm giải phóng bớt áp lực tăng tỉ giá dồn về cuối năm.

Quả thực, áp lực đó sớm hiện hữu. Tháng 9/2010, lạm phát bắt đầu tăng nhanh; đi cùng với đó là tăng trưởng tín dụng ngoại tệ tiếp tục bùng nổ; giá vàng thế giới tăng cao tác động bất lợi ở nhiều mặt; cầu ngoại tệ lớn cho nhập khẩu và mối quan ngại nhập siêu cao; lãi suất huy động USD nhảy vọt và hoạt động đầu cơ ngoại tệ trở nên nổi bật.

Tháng 10/2010, thị trường ngoại hối bắt đầu đón một cơn sốt thực sự của tỉ giá USD/VND trên thị trường tự do và kéo dài cho đến hết năm. Lần đầu tiên trong lịch sử chênh lệch giữa giá USD trên thị trường tự do với giá USD niêm yết của các ngân hàng thương mại có thời điểm lên tới gần 10%!

Phía sau những căng thẳng đó là sự chảy máu của dự trữ ngoại hối với yêu cầu bình ổn. Và như một phản ứng thông thường, thị trường nảy sinh những tin đồn, hay đúng hơn là sự chờ đợi một lần điều chỉnh tỷ giá nối tiếp của Ngân hàng Nhà nước. Sự đồn đoán lúc đó tính đến một khả năng rằng, nhà điều hành sẽ tăng mạnh tỉ giá vào cuối tháng 1/2011, thời điểm trước kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, tranh thủ một kỳ nghỉ dài để “pha loãng” hiệu ứng tâm lý. Nhưng không.

Bên lề nhật ký theo dõi quãng biến động này của tỉ giá USD/VND, có một sự kiện được ghi lại: thời điểm chuẩn bị tổ chức Đại hội Đảng lần thứ XI. Có ý kiến cho rằng chính trị luôn là một yếu tố quan trọng và hiển nhiên của mọi hình thái kinh tế – xã hội. Nó gắn với những biến động của nền kinh tế. Và trong những tình huống nhất định, sự lựa chọn được đặt ra. Việc điều chỉnh tỉ giá đã không được thực hiện trong thời điểm đó.

Sự căng thẳng của tỉ giá USD/VND cuối năm 2010 được chuyển tiếp sang đầu năm 2011 như vậy. Và điều thị trường chờ đợi rồi cũng đến với sự kiện ngày 11/2/2011: lần đầu tiên trong lịch sử Ngân hàng Nhà nước có quyết định tăng tỉ giá mạnh đến như vậy, với 9,3% đi cùng với việc siết biên độ từ +/-3% xuống còn +/-1%.

Có nhiều lý giải đặt ra quanh con số 9,3% đó. Thứ nhất, đó là sự giải phóng áp lực dồn nén quá lớn sau một thời gian tương đối dài. Thứ hai, nhà điều hành muốn một bước để nhanh chóng thu hẹp khoảng cách giữa hai tỷ giá. Thứ ba, nhà điều hành đã sòng phẳng hơn và theo yêu cầu của thị trường… Và một điểm quan trọng của nó là xóa bớt kỳ vọng sẽ tiếp tục phá giá trong năm 2011 ở giới đầu cơ, hay trong tâm lý thị trường. Giá trị này đến nay đã đúng.

Mọi điều chỉnh của chính sách thường có độ trễ. “Sự kiện 11/2/2011” cũng vậy. Phải đến đầu tháng 4/2011 tỉ giá mới bắt đầu có dấu hiệu bình ổn. Cùng với sự điều chỉnh trên, dấu hiệu đó là kết quả của loạt giải pháp Ngân hàng Nhà nước triển khai mà giới quan sát vẫn dùng từ “ép” hay “vắt cung ngoại tệ”.

Đó là cơ chế áp và siết trần lãi suất huy động USD, thực hiện kết hối và mở rộng đối tượng kết hối, xử lý loạt giao dịch bất hợp pháp trên thị trường tự do… Thêm vào đó, tín dụng ngoại tệ vẫn tăng cao tạo một nguồn cung thương mại từ vốn chuyển đổi cho thị trường; sự chuyển đổi vốn ngoại tệ sang VND cũng có ở các ngân hàng thương mại khi chênh lệch lãi suất cho vay quá hấp dẫn với khoảng 300% càng tạo cung cho thị trường…

Với những yếu tố trên, thị trường ngoại hối năm 2011 đón sự kiện ngày 29/4. Sự kiện này bắt nguồn từ những giải pháp, yếu tố tạo cung nói trên, mà điển hình là sự hy hữu có trong hoạt động của các ngân hàng thương mại: chào mời doanh nghiệp mua ngoại tệ!

Thực tế, cung thuận lợi đã tạo một sự đứt gãy rõ rệt trên đường hiển thị biến động tỉ giá, quãng từ 19/4 – 28/4/2011. Giá USD liên tục lao dốc chóng mặt, từ 20.940 VND rơi xuống còn 20.590 VND. Để rồi ngày 29/4 trở thành mốc sự kiện quan trọng khi Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước bất ngờ tăng mạnh giá mua vào USD. Điểm đánh dấu quan trọng cho “nửa sau bình yên” của tỉ giá 2011 nằm ở đây.

Từ 29/4 và nối dài sau đó, Ngân hàng Nhà nước liên tục mua vào. Trạng thái dự trữ ngoại tệ có sự cải thiện mạnh và nhanh chóng. Bên lề nhật ký của diễn biến này có một điểm được ghi nhận: trước khi chuyển giao nhiệm vụ, nguyên Thống đốc Nguyễn Văn Giàu đã “trả lại” một phần đáng kể cho năng lực dự trữ ngoại tệ.

Vì sao sự kiện 29/4 lại được xem là mốc quan trọng cho “nửa sau bình yên” của tỉ giá 2011? Bên cạnh các yếu tố vĩ mô tác động đến tỉ giá, sự cải thiện của dư trữ ngoại tệ từ đó là một nguồn lực quan trọng cho công tác bình ổn và điều hành. Điều này gắn với một sự kiện nối tiếp có ở nhiệm kỳ mới của Thống đốc Nguyễn Văn Bình.

Ngày 7/9/2011, một tháng sau khi tân Thống đốc tiếp nhận nhiệm vụ điều hành, Ngân hàng Nhà nước tổ chức hội nghị ngành và tại đây thông điệp được đưa ra: nếu điều chỉnh tỉ giá USD/VND thì từ nay (tại ngày 7/9) đến cuối năm không quá 1%.

Tương tự như sự kiện ngày 11/2/2011, thông điệp trên đã xóa bỏ nhất định kỳ vọng tỉ giá tăng trên thị trường, cũng như trong tâm lý dân cư… Giá trị của nó gắn với sự kiện ngày 29/4/2011. Bởi sau sự kiện Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước nâng mạnh giá mua vào USD ngày 29/4 và liên tiếp mua vào sau đó, dự trữ ngoại tệ tăng mạnh trở lại, thông điệp trên trở nên có trọng lượng. Rõ ràng Ngân hàng Nhà nước sẽ khó thuyết phục niềm tin của thị trường với cam kết “không quá 1%” của mình nếu trong tay không có sự gia tăng trở lại của dự trữ ngoại tệ trước đó.

Thực tế, cho đến những ngày cuối năm 2011 này, Ngân hàng Nhà nước đã giữ vững được cam kết. Dù trong quãng êm đềm của “nửa sau” 2011 có chuỗi tăng dồn dập 14 lần liên tiếp của tỷ giá bình quân liên ngân hàng trong tháng 10, hay “cú ném ao bèo” ngày 14/12 vừa qua. Và cũng là lần đầu tiên kể từ sau nhiều năm có khả năng mức tỷ giá kết thúc năm nay thấp hơn điểm cuối của năm trước.

Đi cùng với cam kết trong “nửa sau” đó, liên quan đến biến động của tỉ giá, nhật ký năm 2011 cũng ghi nhận lần đầu tiên Ngân hàng Nhà nước có những giải pháp xử lý những tác động từ thị trường vàng mà không phải dùng đến “liều thuốc” ra tin cấp hạn ngạch nhập khẩu, chi ngoại tệ cho nhập khẩu vàng. Còn việc bình ổn được thị trường vàng hay không đến nay lại là một vấn đề khác.

Điểm lại, nửa sau năm 2011 Ngân hàng Nhà nước đã thành công trong bình ổn tỉ giá và thị trường ngoại hối. Bên cạnh công tác quản lý điều hành, nhật ký biến động tỉ giá 2011 đã chứng kiến một sự hậu thuận lớn từ những yếu tố vĩ mô. Nhập siêu đã giảm rất mạnh trong năm nay và đặc biệt là sự trở lại ấn tượng của trạng thái thặng dư cán cân tổng thể (dự tính thặng dư tới 3,1 tỉ USD).

Và, có lẽ sẽ đầy đủ và công bằng hơn khi nhìn sự bình yên của tỉ giá USD/VND vừa qua là gắn với cả một quá trình trước đó. Bởi cây không thể đơm hoa, kết trái hôm nay nếu rễ không tích lũy dinh dưỡng trong quá khứ…

{lang: 'vi'}

Theo VnEconomy

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 84,300 85,800
AVPL/SJC HCM 84,300 85,800
AVPL/SJC ĐN 84,300 85,800
Nguyên liệu 9999 - HN 73,500 74,300
Nguyên liệu 999 - HN 73,400 74,200
AVPL/SJC Cần Thơ 84,300 85,800
Cập nhật: 07/05/2024 04:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.350 75.150
TPHCM - SJC 84.300 86.500
Hà Nội - PNJ 73.350 75.150
Hà Nội - SJC 84.300 86.500
Đà Nẵng - PNJ 73.350 75.150
Đà Nẵng - SJC 84.300 86.500
Miền Tây - PNJ 73.350 75.150
Miền Tây - SJC 84.300 86.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.350 75.150
Giá vàng nữ trang - SJC 84.300 86.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.350
Giá vàng nữ trang - SJC 84.300 86.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.350
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.300 74.100
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.330 55.730
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.100 43.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.580 30.980
Cập nhật: 07/05/2024 04:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,325 7,510
Trang sức 99.9 7,315 7,500
NL 99.99 7,320
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,300
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,390 7,540
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,390 7,540
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,390 7,540
Miếng SJC Thái Bình 8,380 8,580
Miếng SJC Nghệ An 8,380 8,580
Miếng SJC Hà Nội 8,380 8,580
Cập nhật: 07/05/2024 04:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 84,300 86,500
SJC 5c 84,300 86,520
SJC 2c, 1C, 5 phân 84,300 86,530
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,350 75,050
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,350 75,150
Nữ Trang 99.99% 73,250 74,250
Nữ Trang 99% 71,515 73,515
Nữ Trang 68% 48,145 50,645
Nữ Trang 41.7% 28,615 31,115
Cập nhật: 07/05/2024 04:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,367.15 16,532.47 17,062.88
CAD 18,078.25 18,260.85 18,846.71
CHF 27,318.10 27,594.04 28,479.34
CNY 3,445.08 3,479.88 3,592.07
DKK - 3,595.35 3,733.04
EUR 26,616.08 26,884.93 28,075.52
GBP 31,023.67 31,337.04 32,342.42
HKD 3,163.66 3,195.62 3,298.14
INR - 303.30 315.43
JPY 160.12 161.74 169.47
KRW 16.18 17.97 19.60
KWD - 82,354.82 85,647.40
MYR - 5,296.27 5,411.79
NOK - 2,290.42 2,387.67
RUB - 265.66 294.09
SAR - 6,745.61 7,015.30
SEK - 2,299.43 2,397.06
SGD 18,301.71 18,486.58 19,079.68
THB 611.17 679.08 705.08
USD 25,127.00 25,157.00 25,457.00
Cập nhật: 07/05/2024 04:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,491 16,511 17,111
CAD 18,259 18,269 18,969
CHF 27,475 27,495 28,445
CNY - 3,450 3,590
DKK - 3,574 3,744
EUR #26,469 26,679 27,969
GBP 31,317 31,327 32,497
HKD 3,116 3,126 3,321
JPY 160.67 160.82 170.37
KRW 16.52 16.72 20.52
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,263 2,383
NZD 14,990 15,000 15,580
SEK - 2,271 2,406
SGD 18,219 18,229 19,029
THB 637.67 677.67 705.67
USD #25,095 25,095 25,457
Cập nhật: 07/05/2024 04:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,157.00 25,457.00
EUR 26,797.00 26,905.00 28,111.00
GBP 31,196.00 31,384.00 32,369.00
HKD 3,185.00 3,198.00 3,303.00
CHF 27,497.00 27,607.00 28,478.00
JPY 161.56 162.21 169.75
AUD 16,496.00 16,562.00 17,072.00
SGD 18,454.00 18,528.00 19,086.00
THB 673.00 676.00 704.00
CAD 18,212.00 18,285.00 18,832.00
NZD 15,003.00 15,512.00
KRW 17.91 19.60
Cập nhật: 07/05/2024 04:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25160 25160 25457
AUD 16613 16663 17168
CAD 18356 18406 18861
CHF 27787 27837 28402
CNY 0 3483.5 0
CZK 0 1030 0
DKK 0 3640 0
EUR 27070 27120 27830
GBP 31660 31710 32370
HKD 0 3250 0
JPY 163.06 163.56 168.1
KHR 0 5.6733 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.0364 0
MYR 0 5520 0
NOK 0 2305 0
NZD 0 15067 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2320 0
SGD 18574 18624 19181
THB 0 650.7 0
TWD 0 780 0
XAU 8420000 8420000 8620000
XBJ 6500000 6500000 7280000
Cập nhật: 07/05/2024 04:45