Kinh tế Trung Quốc có tín hiệu hồi phục

17:00 | 17/09/2022

241 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Nền kinh tế Trung Quốc có dấu hiệu hồi phục trong tháng 8 khi Bắc Kinh triển khai các biện pháp kích thích nhằm chống lại sự suy thoái.

Dữ liệu của Tổng cục Thống kê quốc gia Trung Quốc (NBS) cho thấy, sản xuất công nghiệp, bán lẻ bất động sản cũng như đầu tư tài sản cố định trong tháng trước đều tăng nhanh hơn dự báo của các nhà kinh tế. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm xuống còn 5,3% trong khi tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên cũng giảm từ mức cao kỷ lục.

Kinh tế Trung Quốc có tín hiệu hồi phục - 1
Kinh tế Trung Quốc có dấu hiệu hồi phục khi các biện pháp kích thích kinh tế được tăng cường (Ảnh: Bloomberg).

Doanh số bán lẻ tăng, một phần do cơ sở so sánh năm ngoái thấp hơn và do doanh số bán xe hơi tăng vọt sau khi Bắc Kinh trợ cấp cho người mua xe điện. Sản lượng công nghiệp cũng được hỗ trợ nhờ sản lượng điện tăng mạnh trong đợt nắng nóng hồi tháng 8 vừa qua. Tuy nhiên, sự phục hồi này khó có thể duy trì lâu.

Theo NBS, những dữ liệu đó cho thấy nền kinh tế Trung Quốc đã chịu được tác động của các yếu tố bất ngờ và duy trì được đà phục hồi.

Dù vậy, phát biểu trước báo giới ở Bắc Kinh, ông Fu Linghui - người phát ngôn của NBS cho biết, trong năm nay, nền kinh tế Trung Quốc vẫn phải đối mặt với một tình hình phức tạp và khắc nghiệt hơn so với năm 2020, trong đó có khó khăn trong việc kiểm soát dịch Covid-19 và sự chậm lại của nền kinh tế toàn cầu.

Mặc dù có những dấu hiệu cải thiện, song sự phục hồi của nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới vẫn còn mong manh khi dịch Covid-19 vẫn bùng phát nhiều nơi hơn và chính phủ nước này vẫn thắt chặt các biện pháp ngăn chặn sự lây lan.

Trong khi đó, sự sụt giảm trên thị trường bất động sản Trung Quốc, lĩnh vực đóng góp 1/4 GDP nước này, chưa có dấu hiệu giảm bớt. Một báo cáo công bố cuối tuần trước cho thấy giá nhà vẫn giảm so với cùng kỳ năm ngoái, và mức giảm trong tháng 8 lớn hơn so với tháng 7.

Tuy nhiên, dữ liệu khả quan trên không tác động nhiều đến các nhà đầu tư. Thứ ảnh hưởng đến tâm lý của họ là đồng nhân dân tệ tiếp tục vi phạm ngưỡng quan trọng 7 nhân dân tệ/USD khi giao dịch ở mức 7,0187 nhân dân tệ/USD vào trưa nay (16/9).

Thị trường chứng khoán cũng phản ứng mờ nhạt, với chỉ số CSI 300 giảm 1,2% khi tạm dừng phiên giao dịch sáng nay (16/9).

Bà Helen Qiao, nhà kinh tế trưởng về Trung Quốc đại lục tại BofA Global Research, cho rằng dữ liệu này cho thấy tăng trưởng hàng năm của Trung Quốc vẫn có thể đạt được mức 3,5% trong năm nay, dù nhu cầu nội địa vẫn còn yếu.

"Chúng tôi vẫn trông chờ nhiều hành động chính sách hơn để vực dậy tăng trưởng. Chúng tôi cho rằng chính sách duy nhất có thể giúp ích cho tăng trưởng là việc nới lỏng các biện pháp kiểm soát Covid-19", bà nói với Bloomberg TV.

Chính phủ và ngân hàng trung ương Trung Quốc gần đây đã thực hiện một số bước để hỗ trợ ngành bất động sản và xây dựng cũng như tìm cách thúc đẩy nền kinh tế vốn đã chậm lại trong năm nay. Chi tiêu cho cơ sở hạ tầng của chính phủ được đẩy mạnh cùng với việc giảm lãi suất của ngân hàng trung ương để thúc đẩy tăng trưởng.

Trước đó, giới chuyên gia kinh tế đã hạ mức dự báo tăng trưởng của Trung Quốc trong năm nay xuống còn 3,5%, năm suy yếu thứ 2 trong hơn một thập kỷ qua. Mức dự báo này thấp hơn nhiều so với mục tiêu 5,5% mà chính phủ nước này đưa ra hồi tháng 3.

"Trong tương lai gần, chúng tôi tin rằng chính sách hỗ trợ nền kinh tế sẽ tiếp tục được đưa ra", Zhou Hao, nhà kinh tế trưởng tại Goutai Junan International Holdings, nói và hy vọng rằng lãi suất cho vay cơ bản sẽ thấp hơn nữa.

Ngành công nghiệp ô tô được coi là động lực chính cho sự tăng trưởng cả về sản lượng công nghiệp và doanh số bán lẻ trong tháng 8 sau khi chính phủ Trung Quốc giảm thuế cho xe điện kể từ 1/6, làm thúc đẩy nhu cầu. Trong tháng qua, sản lượng xe chạy bằng năng lượng mới cũng tăng 117% so với cùng kỳ hàng năm.

Một yếu tố khác góp phần vào sự phục hồi nền kinh tế Trung Quốc trong tháng qua là sản lượng điện tăng. Theo đó, sản lượng điện từ than đá tăng 14,8% so với cùng kỳ năm ngoái, nhằm giải quyết tình trạng thiếu điện ở các tỉnh phía tây nam do nắng nóng và hạn hán.

Tuy vậy, theo Bloomberg, chiến lược kiểm soát Covid-19 của Bắc Kinh vẫn được coi là mối đe dọa lớn đối với tăng trưởng, với việc các thành phố quan trọng như Thành Đô vừa bị phong tỏa khẩn cấp gần đây.

Theo Dân trí

Trung Quốc có thể nhập khí đốt Nga rồi tái xuất qua châu Âu?Trung Quốc có thể nhập khí đốt Nga rồi tái xuất qua châu Âu?
Tòa nhà chọc trời ở Trung Quốc bốc cháy dữ dộiTòa nhà chọc trời ở Trung Quốc bốc cháy dữ dội
Nga mở đường ống khí đốt đến Trung Quốc thay thế Dòng chảy Phương Bắc 2Nga mở đường ống khí đốt đến Trung Quốc thay thế Dòng chảy Phương Bắc 2
Mỹ, Trung Quốc, EU tăng trưởng chậm lại, WB cảnh báo nguy cơ mới năm 2023Mỹ, Trung Quốc, EU tăng trưởng chậm lại, WB cảnh báo nguy cơ mới năm 2023
Báo Trung Quốc đưa ra lời khuyên bất ngờ với Quang HảiBáo Trung Quốc đưa ra lời khuyên bất ngờ với Quang Hải

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,800 ▼200K 84,000
AVPL/SJC HCM 81,800 ▼200K 84,000
AVPL/SJC ĐN 81,800 ▼200K 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 73,250 ▼200K 74,200 ▼200K
Nguyên liệu 999 - HN 73,150 ▼200K 74,100 ▼200K
AVPL/SJC Cần Thơ 81,800 ▼200K 84,000
Cập nhật: 25/04/2024 16:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 74.800
TPHCM - SJC 82.300 84.300
Hà Nội - PNJ 73.000 74.800
Hà Nội - SJC 82.300 84.300
Đà Nẵng - PNJ 73.000 74.800
Đà Nẵng - SJC 82.300 84.300
Miền Tây - PNJ 73.000 74.800
Miền Tây - SJC 82.000 ▼500K 84.300 ▼200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 73.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 55.430
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 43.270
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 30.810
Cập nhật: 25/04/2024 16:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,305 ▼15K 7,510 ▼15K
Trang sức 99.9 7,295 ▼15K 7,500 ▼15K
NL 99.99 7,300 ▼15K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,280 ▼15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,370 ▼15K 7,540 ▼15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,370 ▼15K 7,540 ▼15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,370 ▼15K 7,540 ▼15K
Miếng SJC Thái Bình 8,230 ▼10K 8,430 ▼10K
Miếng SJC Nghệ An 8,230 ▼10K 8,430 ▼10K
Miếng SJC Hà Nội 8,230 ▼10K 8,430 ▼10K
Cập nhật: 25/04/2024 16:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 ▼500K 84,300 ▼200K
SJC 5c 82,000 ▼500K 84,320 ▼200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 ▼500K 84,330 ▼200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 74,800 ▼100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 74,900 ▼100K
Nữ Trang 99.99% 72,900 74,000 ▼100K
Nữ Trang 99% 71,267 ▼99K 73,267 ▼99K
Nữ Trang 68% 47,975 ▼68K 50,475 ▼68K
Nữ Trang 41.7% 28,511 ▼42K 31,011 ▼42K
Cập nhật: 25/04/2024 16:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,132.31 16,295.26 16,818.06
CAD 18,084.86 18,267.53 18,853.61
CHF 27,078.76 27,352.28 28,229.82
CNY 3,428.68 3,463.32 3,574.97
DKK - 3,581.24 3,718.38
EUR 26,509.78 26,777.56 27,963.40
GBP 30,937.15 31,249.64 32,252.22
HKD 3,157.93 3,189.82 3,292.16
INR - 303.56 315.69
JPY 158.10 159.69 167.33
KRW 15.97 17.75 19.36
KWD - 82,247.73 85,536.02
MYR - 5,254.14 5,368.74
NOK - 2,269.41 2,365.76
RUB - 261.89 289.91
SAR - 6,745.43 7,015.11
SEK - 2,290.51 2,387.76
SGD 18,188.62 18,372.35 18,961.78
THB 605.39 672.66 698.42
USD 25,137.00 25,167.00 25,477.00
Cập nhật: 25/04/2024 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,311 16,411 16,861
CAD 18,302 18,402 18,952
CHF 27,342 27,447 28,247
CNY - 3,460 3,570
DKK - 3,598 3,728
EUR #26,742 26,777 28,037
GBP 31,373 31,423 32,383
HKD 3,165 3,180 3,315
JPY 159.6 159.6 167.55
KRW 16.65 17.45 20.25
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,278 2,358
NZD 14,877 14,927 15,444
SEK - 2,290 2,400
SGD 18,211 18,311 19,041
THB 632.52 676.86 700.52
USD #25,158 25,158 25,477
Cập nhật: 25/04/2024 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,155.00 25,475.00
EUR 26,606.00 26,713.00 27,894.00
GBP 30,936.00 31,123.00 32,079.00
HKD 3,170.00 3,183.00 3,285.00
CHF 27,180.00 27,289.00 28,124.00
JPY 158.79 159.43 166.63
AUD 16,185.00 16,250.30 16,742.00
SGD 18,268.00 18,341.00 18,877.00
THB 665.00 668.00 694.00
CAD 18,163.00 18,236.00 18,767.00
NZD 14,805.00 15,299.00
KRW 17.62 19.25
Cập nhật: 25/04/2024 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25155 25155 25477
AUD 16349 16399 16909
CAD 18342 18392 18848
CHF 27509 27559 28112
CNY 0 3463.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26943 26993 27703
GBP 31492 31542 32200
HKD 0 3140 0
JPY 160.89 161.39 165.9
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0381 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14917 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18446 18496 19057
THB 0 644.5 0
TWD 0 779 0
XAU 8250000 8250000 8420000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 25/04/2024 16:45