Dữ liệu Việt Nam: Chặng đường còn dài

08:46 | 01/06/2023

20 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Mặc dù dữ liệu thương mại tháng 5 của Việt Nam không suy giảm thêm nhưng vẫn còn một chặng đường dài trước khi thấy được sự phục hồi đáng kể trong chu kỳ thương mại.

Xuất khẩu trong tháng 5 giảm 5,8% so với cùng kỳ năm trước, tốc độ giảm chậm hơn so với dự đoán của thị trường nhưng sự suy yếu trên diện rộng vẫn còn đó. Trong khi đó, tình trạng nhập khẩu sụt giảm vẫn tiếp diễn ở mức 18,3% so với cùng kỳ năm trước. Tình hình sản xuất công nghiệp nói riêng cũng là minh chứng cho triển vọng còn yếu của bên ngoài với mức giảm 19,4% so với cùng kỳ năm trước.

Dữ liệu Việt Nam: Chặng đường còn dài | Thời sự

Doanh số bán lẻ trong tháng 5 tăng 11,5% so với cùng kỳ năm trước là tín hiệu cho thấy tiêu dùng trong nước vẫn duy trì mạnh mẽ. Cụ thể, doanh số những mảng liên quan đến du lịch tiếp tục hỗ trợ cho tiêu dùng nội địa với nhóm dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng trưởng 12,1% so với cùng kỳ năm trước.

Du khách quốc tế đạt 916.000 lượt trong tháng 5, đưa tổng lượng khách du lịch từ đầu năm tới giờ lên 4,6 triệu lượt. Cụ thể, du khách đến từ Trung Quốc đại lục tiếp tục tăng, gần đạt 147.000 lượt trong tháng 5.

Lạm phát toàn phần trong tháng 5 đã dịu xuống 2,4% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, lạm phát cơ bản vẫn cao và chưa có dấu hiệu biến chuyển, duy trì ở mức 4,5%, chạm mức trần mà Ngân hàng Nhà nước đã đề ra cho năm 2023.

Dữ liệu Việt Nam: Chặng đường còn dài | Thời sự

Những con số trên cho thấy, Việt Nam vẫn chưa vượt qua được tình thế khó khăn hiện tại. Mặc dù dữ liệu hoạt động kinh tế tháng 5 không xấu đi, Việt Nam vẫn chưa có dấu hiệu "chạm đáy" để bật trở lại trong bối cảnh nhiều khó khăn gia tăng cản trở tăng trưởng. Thật vậy, dữ liệu lĩnh vực bên ngoài chậm lại vẫn là rủi ro lớn nhất đối với tăng trưởng.

Trong khi xuất khẩu giảm 5,8% so với cùng kỳ năm trước, một mức giảm nhẹ hơn hẳn so với mức giảm hai con số tháng trước, hiệu ứng cơ sở phần nào cứu cánh. Xét cho cùng, sự suy yếu trên diện rộng của xuất khẩu tiếp tục ảnh hưởng đến triển vọng tăng trưởng của Việt Nam.

Không có ngành hàng nào trong số các ngành hàng chính như điện tử, máy móc, dệt may/da giày và đồ nội thất gỗ cho thấy dấu hiệu phục hồi đáng kể. Mặc dù dữ liệu xuất khẩu chính thức của Việt Nam chưa được công bố trong tháng 5, dữ liệu tính đến tháng 4/2023 cho thấy đơn hàng sụt giảm mạnh ở ba thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam: Mỹ, Trung Quốc và EU. Cụ thể, với thị phần lớn lên tới 30%, Việt Nam chắc chắn dễ bị ảnh hưởng bởi tình hình kinh tế chậm lại ở Mỹ.

Mặc dù xuất khẩu giảm xuống một con số, nhập khẩu giảm nhanh hơn nhiều, với tốc độ giảm 18,3% so với cùng kỳ năm trước. Có ý kiến cho rằng điều đó có lợi cho thặng dư thương mại của Việt Nam, ghi nhận ở mức 2,2 tỷ USD, gấp đôi mức bình quân tháng của năm 2022.

Dữ liệu Việt Nam: Chặng đường còn dài | Thời sự

Cán cân thương mại được cải thiện phần nào chính là lý do đồng VND duy trì tương đối ổn định trong bối cảnh đồng USD mạnh lên suốt hai tuần trước, vượt qua các đồng tiền khác như KRW và MYR, vốn cũng liên quan mật thiết đến đồng RMB. Tuy nhiên, với ngành sản xuất có bản chất thiên về nhập khẩu, sự suy yếu lớn trong nhập khẩu của Việt Nam cũng là dấu hiệu cho thấy sự phục hồi chậm chạm của xuất khẩu trong tương lai.

Mặc dù vậy, bức tranh nhìn chung không hoàn toàn chỉ một màu xám. Ngành dịch vụ của Việt Nam vẫn tiếp tục là một điểm sáng, phần nào bù đắp cho những suy yếu ở lĩnh vực bên ngoài. Tuy nhiên, có sự khác biệt lớn giữa những mặt hàng giá trị cao, ví dụ như ô tô, và dịch vụ liên quan đến du lịch – một xu hướng cũng đang diễn ra ở các nước khác trong khu vực.

Điều đáng mừng là lượng khách du lịch nhập cảnh vào Việt Nam có chiều hướng tích cực. Bất chấp số lượng có giảm nhẹ so với mức của tháng Tư, Việt Nam một lần nữa lại đón hơn 900.000 du khách, đưa mức phục hồi du lịch lên khoảng 70% so với mức của năm 2019.

Cụ thể, du khách đến từ Trung Quốc đại lục phục hồi 35% so với mức của năm 2019 mặc dù vẫn còn chậm, con số này vẫn còn đang tăng lên. Thật vậy, Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc phục hồi các chuyến bay thẳng với Trung Quốc, hiện tại đã phục hồi 44% so với mức của năm 2019.

Dữ liệu Việt Nam: Chặng đường còn dài | Thời sự

Việt Nam đã đón tổng cộng 4,6 triệu du khách quốc tế từ đầu năm tới nay, đạt 60% mục tiêu 8 triệu du khách quốc tế của năm 2023. Với mùa du lịch hè sắp tới và khả năng nới lỏng các hạn chế về thị thực, vốn đang được Quốc hội cân nhắc, Việt Nam có thể sẽ chứng kiến một cú hích mạnh hơn từ du lịch quốc tế, một nguồn hỗ trợ rất cần thiết đối với nền kinh tế đang chững lại hiện nay.

Đề xuất bao gồm kéo dài thời hạn thị thực điện tử (từ 30 ngày) lên 90 ngày và thời gian miễn thị thực (từ 15 ngày) lên 45 ngày, cũng như mở rộng danh sách các nước, vùng lãnh thổ có công dân được cấp thị thực điện tử nhằm theo kịp với các quốc gia khác trong khu vực.

Cuối cùng là một vài tin vui, lạm phát tiếp tục hạ nhiệt. Đà lạm phát toàn phần vẫn ổn định trong tháng 5, đưa lạm phát toàn phần cả năm so với cùng kỳ năm trước xuống 2,4%. Mặc dù chi phí xây xựng và vật liệu tăng 1,0% so với cùng kỳ tháng trước, chủ yếu phản ánh đợt tăng giá điện một tháng trước đó, chi phí vận chuyển giảm đáng kể (-3% so với cùng kỳ tháng trước) bù lại một số rủi ro tăng lạm phát.

Và, lạm phát dịu xuống là một trong những nguyên nhân Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) mới đây cắt giảm lãi suất lần thứ ba.

Theo Diễn đàn Doanh nghiệp

Xuất nhập khẩu hàng hóa tháng 5 tăng 5,3%

Xuất nhập khẩu hàng hóa tháng 5 tăng 5,3%

Hoạt động xúc tiến thương mại được thúc đẩy mạnh mẽ, kim ngạch xuất nhập khẩu tháng 5 năm 2023 ước đạt 55,86 tỉ USD, tăng 5,3% so với tháng trước, tính chung 5 tháng đầu năm cả nước vẫn xuất siêu tới 9,8 tỉ USD.

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 84,000
AVPL/SJC HCM 82,000 84,000
AVPL/SJC ĐN 82,000 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 74,400 75,600
Nguyên liệu 999 - HN 74,300 75,500
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 84,000
Cập nhật: 19/04/2024 03:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 82.100 84.100
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 82.100 84.100
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 82.100 84.100
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 19/04/2024 03:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,435 7,650
Trang sức 99.9 7,425 7,640
NL 99.99 7,430
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,410
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,500 7,680
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,500 7,680
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,500 7,680
Miếng SJC Thái Bình 8,210 8,400
Miếng SJC Nghệ An 8,210 8,400
Miếng SJC Hà Nội 8,210 8,400
Cập nhật: 19/04/2024 03:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,100 84,100
SJC 5c 82,100 84,120
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,100 84,130
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,700 76,600
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,700 76,700
Nữ Trang 99.99% 74,600 75,900
Nữ Trang 99% 73,149 75,149
Nữ Trang 68% 49,267 51,767
Nữ Trang 41.7% 29,303 31,803
Cập nhật: 19/04/2024 03:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,802.74 15,962.37 16,474.59
CAD 17,830.93 18,011.04 18,589.00
CHF 27,037.08 27,310.18 28,186.55
CNY 3,419.83 3,454.37 3,565.76
DKK - 3,534.07 3,669.44
EUR 26,168.83 26,433.16 27,603.92
GBP 30,667.37 30,977.14 31,971.18
HKD 3,144.63 3,176.39 3,278.32
INR - 301.14 313.19
JPY 158.53 160.13 167.79
KRW 15.77 17.53 19.12
KWD - 81,790.33 85,060.87
MYR - 5,219.21 5,333.08
NOK - 2,258.10 2,353.99
RUB - 254.56 281.80
SAR - 6,718.10 6,986.74
SEK - 2,263.43 2,359.55
SGD 18,067.70 18,250.20 18,835.84
THB 606.11 673.46 699.26
USD 25,100.00 25,130.00 25,440.00
Cập nhật: 19/04/2024 03:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,002 16,022 16,622
CAD 18,149 18,159 18,859
CHF 27,357 27,377 28,327
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,537 3,707
EUR #26,206 26,416 27,706
GBP 31,060 31,070 32,240
HKD 3,116 3,126 3,321
JPY 160.26 160.41 169.96
KRW 16.21 16.41 20.21
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,220 2,340
NZD 14,751 14,761 15,341
SEK - 2,245 2,380
SGD 18,101 18,111 18,911
THB 637.99 677.99 705.99
USD #25,145 25,145 25,440
Cập nhật: 19/04/2024 03:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,100.00 25,120.00 25,440.00
EUR 26,325.00 26,431.00 27,607.00
GBP 30,757.00 30,943.00 31,897.00
HKD 3,164.00 3,177.00 3,280.00
CHF 27,183.00 27,292.00 28,129.00
JPY 159.58 160.22 167.50
AUD 15,911.00 15,975.00 16,463.00
SGD 18,186.00 18,259.00 18,792.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 17,956.00 18,028.00 18,551.00
NZD 14,666.00 15,158.00
KRW 17.43 19.02
Cập nhật: 19/04/2024 03:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25225 25275 25442
AUD 16138 16188 16591
CAD 18211 18261 18666
CHF 27736 27786 28199
CNY 0 3479.7 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26808 26858 27368
GBP 31508 31558 32018
HKD 0 3115 0
JPY 162.51 163.01 167.54
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0372 0
MYR 0 5400 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14819 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18515 18515 18872
THB 0 651.3 0
TWD 0 777 0
XAU 8220000 8220000 8390000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 19/04/2024 03:00