6 tháng cuối năm: Chứng khoán là kênh đầu tư hấp dẫn nhất

07:00 | 02/07/2013

1,042 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Trao đổi với PV về các kênh đầu tư trong 6 tháng cuối năm, PGS.TS Nguyễn Văn Trình, Phó hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế - Luật (ĐHQG TP HCM) nhận định rằng, chứng khoán sẽ là kênh đầu tư hấp dẫn nhất.

PV: Thưa ông, giá vàng liên tục “tuột dốc” xuống mức thấp nhất trong vòng 2 năm qua, ông đánh giá như thế nào về thị trường vàng hiện nay và cơ hội đầu tư vào thị trường này trong thời gian tới?

PGS.TS Nguyễn Văn Trình: Hiện nay, giá vàng đang trong xu hướng giảm. Theo tôi, chu kỳ tăng giá 10 năm của vàng đã hết. Các ngân hàng trung ương trên thế giới đang có chính sách thắt chặt tiền tệ. Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) cắt giảm các gói hỗ trợ, nới lỏng định lượng. Ngân hàng Trung ương Trung Quốc cũng đang có chính sách thắt chặt tiền tệ. Ấn Độ, một trong những quốc gia sở hữu vàng vật chất lớn nhất thế giới cũng nâng thuế nhập khẩu vàng. Các quỹ đầu cơ vàng liên tục bán ra.

Cụ thể như, quỹ đầu tư vàng lớn nhất thế giới SPDR Gold Trust lần đầu tiên sau 4 năm giảm lượng vàng dự trữ xuống dưới 1.000 tấn (trước đó luôn nắm giữ 1.300-1.400 tấn vàng). Các tổ chức cho vay đầu cơ vàng cũng nâng tỷ lệ ký quỹ lên… Nhiều dự báo cho rằng giá vàng sẽ tiếp tục giảm xuống chỉ còn khoảng 1.000USD/ounce, dẫn đến tình trạng bán tháo vàng và làm cho kênh đầu tư vàng ngày càng kém hấp dẫn.

PGS.TS Nguyễn Văn Trình

Theo tôi, trong những tháng cuối năm giá vàng sẽ tiếp tục xu hướng giảm, giá trong nước cũng giảm theo xu hướng giá thế giới và ngày càng tiệm cận với giá thế giới. Giá vàng đang “lao dốc” như thế này sẽ không biết đâu là “đáy”. Nếu quyết định mua vàng thì nên chốt ở một thời điểm nào đó để mua và xác định ngưỡng bán ra. Nên mua hay không tùy thuộc vào chiến lược của các nhà đầu tư. Tuy nhiên, với dân chúng, tôi cho rằng nên thận trọng, không nên mua vàng vào thời điểm này. Nếu muốn mua thì phải chờ xem chuyển biến của thị trường vào những tháng cuối năm. Đặc biệt, không nên để “tất cả các quả trứng vào một rổ” mà nên phân phối vào các kênh đầu tư khác để hạn chế thấp nhất rủi ro.

PV: Trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, bất ổn, hoạt động kinh doanh có nhiều rủi ro thì người dân vẫn chọn gửi tiền vào ngân hàng mặc dù lãi suất tiền gửi giảm mạnh so với trước đây.

PGS.TS Nguyễn Văn Trình: Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa giảm trần lãi suất huy động từ 7,5%/năm xuống còn 7%/năm và hiện nay một số NHTM còn đưa ra mức lãi suất tiền gửi thấp hơn lãi suất trần của NHNN đưa ra. Tuy nhiên, với lãi suất 6-7%/năm, so với mức lạm phát khoảng 6% thì vẫn là an toàn, lãi suất thực dương vẫn có mặc dù không cao. Do đó, đây vẫn là kênh sinh lời đáng kể và không phải bỏ công sức gì. Nếu muốn an toàn thì gửi tiết kiệm luôn là kênh an toàn nhất. Đối với những người về hưu, người có tiền nhàn rỗi nhưng không biết đầu tư vào đâu thì gửi tiết kiệm vẫn là kênh ưu tiên hàng đầu.

PV: Nhiều chuyên gia cho rằng, đây là thời điểm “vàng” để đầu tư chứng khoán. Theo ông, triển vọng của thị trường này như thế nào?

PGS.TS Nguyễn Văn Trình: Chứng khoán hiện là kênh đầu tư hấp dẫn nhất vì giá cổ phiếu Việt Nam đang thấp so với các nước trong khu vực. Dự kiến, từ nay đến cuối năm sẽ có nhiều “cơn sóng” trên thị trường. Nếu chọn đúng điểm rơi, bắt được đáy cổ phiếu thì lợi nhuận rất cao, có thể lên đến 20-30% trong vòng vài ngày. Tuy nhiên, nếu không chọn đúng điểm rơi mà mua vào lúc giá đang lên đỉnh thì nguy cơ cũng có thể lỗ 60-70% trong vài ngày khi giá giảm xuống. Do đó, chứng khoán đang là kênh đầu tư sôi động nhất, có thể thu lợi nhuận cao và vì vậy tất nhiên rủi ro cũng rất cao.

Thị trường chứng khoán phụ thuộc nhiều vào kinh tế vĩ mô. Tình hình vĩ mô đang có nhiều dấu hiệu chuyển biến tốt nên hỗ trợ thị trường. Nhà đầu tư đang nhìn thấy những nỗ lực của Chính phủ để cứu thị trường. Những dấu hiệu này sẽ có tác động lan tỏa, “dội” vào thị trường chứng khoán. Đặc biệt, lãi suất giảm, “sự xuất hiện trạng thái tiền rẻ” là điều kiện để thị trường chứng khoán ổn định hơn vì nếu lãi suất giảm giá trị của cổ phiếu, trái phiếu sẽ tăng lên và ngược lại. Trong ngắn hạn thì đầu tư chứng khoán phụ thuộc nhiều vào những “cơn sóng” của thị trường nhưng triển vọng trong dài hạn được dự báo rất tốt, với xu thế tăng là tất yếu.

Tuy nhiên, việc tăng giá của từng cổ phiếu sẽ khác nhau, sự phân hóa của các cổ phiếu trên thị trường cũng rất cao bởi một số công ty vươn lên mạnh mẽ, còn một số khác lại loay hoay chưa tìm được lối thoát. Do đó, phân tích để lựa chọn cổ phiếu có triển vọng tăng giá khi thị trường khởi sắc là yếu tố quyết định thắng thua với mỗi nhà đầu tư. Các nhà đầu tư nên chọn những công ty có nền tảng cơ bản tốt, làm ăn có lợi nhuận, lãi suất vay ít để đầu tư dài hạn và thận trọng trong đầu tư ngắn hạn, không nên mua đuổi theo giá.

PV: Thị trường bất động sản vẫn đang trong tình trạng “đóng băng”, liệu có cơ hội nào cho kênh đầu tư này vào thời điểm hiện nay?

PGS.TS Nguyễn Văn Trình: Đã có nhiều giải pháp được đưa ra để tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản nhưng thực tế chưa thấy được sự khởi sắc của thị trường này. Niềm tin vào thị trường bất động sản vẫn đang sụt giảm mạnh, các nhà đầu cơ vắng bóng trên thị trường. Theo tôi, đây là thời điểm cho những người sở hữu nguồn vốn lớn, với chiến lược lâu dài có thể chọn mua những dự án tốt để chờ cơ hội phục hồi của thị trường. Đối với người dân, thì đây cũng là thời điểm để mua nhà vì giá cả vừa phải và có nhiều cơ hội lựa chọn.

PV: Cuối cùng, xin ông cho biết nhận định của mình đối với kênh đầu tư ngoại tệ?

PGS.TS Nguyễn Văn Trình: Hiện nay, đây không phải là kênh đầu tư hấp dẫn nhưng cũng là kênh giữ giá trị đồng tiền tốt. Trong thời gian qua thị trường ngoại tệ có sự ổn định. NHNN muốn giữ ổn định tỷ giá trong biên độ tăng không quá 2-3% trong năm 2013. Tuy nhiên, hiện tại có áp lực lên thị trường ngoại tệ bởi giá USD trên thị trường tự do tăng cao. Và ngày 27-6 vừa qua, NHNN cũng đã công bố điều chỉnh tỷ giá lên 1%. Nếu giá USD liên tục tăng thì cũng sẽ tạo áp lực buộc Việt Nam phải nâng tỷ giá để giữ USD. Tuy nhiên, định hướng của NHNN trong thời gian tới vẫn là áp dụng các biện pháp cần thiết để giữ ổn định tỷ giá, khuyến khích nắm giữ VNĐ, hạn chế chuyển dịch sang USD. Do đó, từ giờ đến cuối năm nếu có tăng tỷ giá cũng không cao.

PV: Xin cảm ơn ông

TS Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế: Trong những tháng cuối năm 2013 sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho các kênh đầu tư bởi các chính sách thuế, các gói hỗ trợ, xử lý nợ xấu, lập lại trật tự thị trường vàng… được Chính phủ đưa ra để hỗ trợ thị trường, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp sẽ bắt đầu tạo nên tác dụng cộng hưởng. Nếu các chính sách kinh tế, tài khóa phát huy được hiệu quả như mong đợi sẽ giúp cho các kênh đầu tư ổn định hơn. Tuy nhiên, chúng ta không kỳ vọng quá nhiều rằng nền kinh tế sẽ có chuyển biến tích cực ngay, để có sự "chuyển mình" ít nhất phải đợi đến năm sau.


Mai Phương (thực hiện)

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 85,300 ▲1000K 86,800 ▲1000K
AVPL/SJC HCM 85,300 ▲1000K 86,800 ▲1000K
AVPL/SJC ĐN 85,300 ▲1000K 86,800 ▲1000K
Nguyên liệu 9999 - HN 73,400 ▼100K 74,250 ▼50K
Nguyên liệu 999 - HN 73,300 ▼100K 74,150 ▼50K
AVPL/SJC Cần Thơ 85,300 ▲1000K 86,800 ▲1000K
Cập nhật: 07/05/2024 17:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.500 ▲150K 75.300 ▲150K
TPHCM - SJC 85.100 ▲800K 87.400 ▲900K
Hà Nội - PNJ 73.500 ▲150K 75.300 ▲150K
Hà Nội - SJC 85.100 ▲800K 87.400 ▲900K
Đà Nẵng - PNJ 73.500 ▲150K 75.300 ▲150K
Đà Nẵng - SJC 85.100 ▲800K 87.400 ▲900K
Miền Tây - PNJ 73.500 ▲150K 75.300 ▲150K
Miền Tây - SJC 85.600 ▲1300K 87.500 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.500 ▲150K 75.300 ▲150K
Giá vàng nữ trang - SJC 85.100 ▲800K 87.400 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.500 ▲150K
Giá vàng nữ trang - SJC 85.100 ▲800K 87.400 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.500 ▲150K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.400 ▲100K 74.200 ▲100K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.400 ▲70K 55.800 ▲70K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.160 ▲60K 43.560 ▲60K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.620 ▲40K 31.020 ▲40K
Cập nhật: 07/05/2024 17:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,325 7,510
Trang sức 99.9 7,315 7,500
NL 99.99 7,320
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,300
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,390 7,540
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,390 7,540
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,390 7,540
Miếng SJC Thái Bình 8,550 ▲170K 8,740 ▲160K
Miếng SJC Nghệ An 8,550 ▲170K 8,740 ▲160K
Miếng SJC Hà Nội 8,550 ▲170K 8,740 ▲160K
Cập nhật: 07/05/2024 17:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 85,300 ▲1000K 87,500 ▲1000K
SJC 5c 85,300 ▲1000K 87,520 ▲1000K
SJC 2c, 1C, 5 phân 85,300 ▲1000K 87,530 ▲1000K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,500 ▲150K 75,200 ▲150K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,500 ▲150K 75,300 ▲150K
Nữ Trang 99.99% 73,400 ▲150K 74,400 ▲150K
Nữ Trang 99% 71,663 ▲148K 73,663 ▲148K
Nữ Trang 68% 48,247 ▲102K 50,747 ▲102K
Nữ Trang 41.7% 28,678 ▲63K 31,178 ▲63K
Cập nhật: 07/05/2024 17:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,396.42 16,562.04 17,093.36
CAD 18,104.93 18,287.81 18,874.50
CHF 27,287.12 27,562.75 28,446.99
CNY 3,446.58 3,481.40 3,593.62
DKK - 3,599.50 3,737.34
EUR 26,642.63 26,911.75 28,103.48
GBP 31,070.28 31,384.12 32,390.95
HKD 3,164.69 3,196.66 3,299.21
INR - 303.47 315.60
JPY 159.45 161.06 168.76
KRW 16.17 17.96 19.59
KWD - 82,398.64 85,692.81
MYR - 5,302.53 5,418.18
NOK - 2,295.72 2,393.19
RUB - 265.41 293.81
SAR - 6,753.59 7,023.59
SEK - 2,299.90 2,397.54
SGD 18,313.88 18,498.87 19,092.33
THB 610.23 678.03 704.00
USD 25,125.00 25,155.00 25,455.00
Cập nhật: 07/05/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,513 16,613 17,063
CAD 18,319 18,419 18,969
CHF 27,532 27,637 28,437
CNY - 3,480 3,590
DKK - 3,615 3,745
EUR #26,868 26,903 28,163
GBP 31,472 31,522 32,482
HKD 3,175 3,190 3,325
JPY 161.14 161.14 169.09
KRW 16.88 17.68 20.48
LAK - 0.9 1.26
NOK - 2,299 2,379
NZD 15,013 15,063 15,580
SEK - 2,293 2,403
SGD 18,320 18,420 19,150
THB 636.82 681.16 704.82
USD #25,200 25,200 25,455
Cập nhật: 07/05/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,155.00 25,455.00
EUR 26,817.00 26,925.00 28,131.00
GBP 31,233.00 31,422.00 32,408.00
HKD 3,182.00 3,195.00 3,301.00
CHF 27,483.00 27,593.00 28,463.00
JPY 160.99 161.64 169.14
AUD 16,546.00 16,612.00 17,123.00
SGD 18,454.00 18,528.00 19,086.00
THB 674.00 677.00 705.00
CAD 18,239.00 18,312.00 18,860.00
NZD 15,039.00 15,548.00
KRW 17.91 19.60
Cập nhật: 07/05/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25178 25178 25455
AUD 16559 16609 17114
CAD 18365 18415 18870
CHF 27772 27822 28385
CNY 0 3486.6 0
CZK 0 1030 0
DKK 0 3640 0
EUR 27092 27142 27852
GBP 31380 31402 32317
HKD 0 3250 0
JPY 162.7 163.2 167.73
KHR 0 5.6733 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.0358 0
MYR 0 5520 0
NOK 0 2305 0
NZD 0 15058 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2320 0
SGD 18576 18626 19183
THB 0 650.6 0
TWD 0 780 0
XAU 8520000 8520000 8740000
XBJ 6800000 6800000 7320000
Cập nhật: 07/05/2024 17:00