Việt Nam chưa chú trọng tự chủ lương thực

08:53 | 12/12/2015

1,243 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Câu nói "Vai trò của Nông nghiệp không chỉ là để ăn no, mà còn phải ăn đủ dinh dưỡng" cho chúng ta thấy rằng, mọi thứ đã thay đổi đối với Ngành Nông nghiệp Việt Nam.  

viet nam chua chu trong tu chu luong thuc

An ninh lương thực - “bài toán” thách thức Việt Nam phát triển bền vững

(Petrotimes) – Là đất nước với 90% dựa vào nông nghiệp nhưng Việt Nam cũng là quốc gia có dân số tăng nhanh với 80 triệu người hiện nay và ước tính sẽ đạt 100 triệu người vào năm 2020. Làm thế nào để có thể tìm ra nguồn lương thực phục vụ nhu cầu của người dân Việt Nam trong tương lai mà vẫn đảm bảo phát triển bền vững là vấn đề đặt ra đối với ngành nông nghiệp nước nhà khi phải đối phó trước nhiều áp lực.

Để thích nghi: cần đổi mới trong tiếp cận về chính sách

An ninh lương thực" (food security”, "nông nghiệp thông minh với khí hậu" (climate-smart agriculture) và "tăng trưởng xanh" (green growth) đã trở thành những khẩu hiệu hành động của Ngành Nông nghiệp Việt Nam trong những năm gần đây.

Tuy nhiên, dường như, việc hiện thực hóa các khẩu hiểu hành động đó để mang lại “giá trị tăng cao” cho người nông dân cần một cách nhìn nhận lại.

Tuy Việt Nam là một quốc gia với đa dạng của thiên nhiên, nhưng cách tiếp cận của cảnh quan trong công tác môi trường và sản xuất nông nghiệp đã không được công nhận chính thức hoặc tích hợp vào các chính sách liên quan đến nông nghiệp, lâm nghiệp, môi trường và biến đổi khí hậu. Cho đến nay, mới chỉ có Tổ chức Phát triển Hà lan (SNV) triển khai mô hình thí điểm từ năm 2012 tại một số tỉnh như Nghệ An và Lâm Đồng.

Đáp ứng với các xu hướng mới đó, các nhà nghiên cứu cũng như hoạch định chính sách cần phải xác định các hành động mang tính đột phá mà Chính phủ cần thực hiện để giúp nông dân thích ứng với biến đổi khí hậu và giúp cung cấp một thực phẩm an toàn và một tương lai phát triển của Ngành Nông nghiệp.Điều này phù hợp với báo cáo kết quả rằng:" Chú ý phải được trao cho nông dân quy mô nhỏ , những người dễ bị tổn thương hơn với sự thay đổi thời tiết và nghèo đói ... " Alenxander Muller, trợ lý tổng giám đốc Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hợp Quốc tại Rome

viet nam chua chu trong tu chu luong thuc
Các chuyên gia chủ trì hội thảo

Và cần một dự án quy mô rộng

Trong bối cảnh yêu cấu hướng tiếp cận mới với nhiều thay đổi trong hoạch định chính sách, một dự án toàn diện tích hợp tất cả các vấn đề cần thiết. Theo TS. Ray Trewin thuộc Trường Chính sách công của Đại học Quốc gia Australia (ANU – Australian National University), Dự án đề ra cần tích hợp thuận lợi của sự hợp tác quốc tế: cho biết:"Để đề xuất một dự án khả thi và lớn , hợp tác giữa các đối tác như ACIAR , IPSARD , ANU và Viện nghiên cứu khác ở Việt Nam là trung tâm ... "

Theo TS. Liz Petersen, Giám đốc Quản lý chương trình của Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế Australia (ACIAR - Australian Centre for International Agricultural Research), đề xuất dự án cũng cần phải bao gồm đầy đủ các yếu tố: Đánh giá của Tổ chức Nghiên cứu quốc tế về khoa học và công nghệ nông nghiệp vì sự phát triển (IAASTD – International Assessment of Agricultural Science and Technology for Development); Những bài học rút ra từ dự án thí điểm đang triển khai tại Indonesia, về nghiên cứu cấp quốc gia phục vụ phát triển tương lai Ngành Nông nghiệp...

ANLT là ưu tiên của Chính phủ Việt Nam, năm 2009 Quốc hội Việt Nam đã ban hành Nghị quyết về ANLT, hơn 70 văn bản chính sách liên quan đã được công bố. Tuy nhiên, quá trình xây dựng và phát triển chính sách đã nảy sinh nhiều yếu điểm và dẫn đến trùng lặp.

Do đó, để tạo một khung chính sách mạnh  mẽ, cải thiện, duy trì việc rà soát và phân tích chính sách là rất cần thiết. Thế nên, Dự án “Nghiên cứu phát triển chính sách và nhóm chính sách an ninh lương thực Việt Nam”(Dự án) cũng là một bước để đạt được vấn đề này.

Trong Dự án bao gồm các mục tiêu chính như việc: Rà soát và đánh giá quá trình phát triển chính sách ANLT của Việt Nam và định hướng chính sách hiện hành, đề xuất hướng cải cách chính sách; Xác định mặt yếu kém của chính sách cần chỉnh sửa; Nâng cao năng lực p hân tích chính sách tại Việt Nam

Dự án là sự kết hợp giữa Australia và Chính phủ Việt Nam, bên phía Australia, Tiến sĩ Elizabeth Petersen (Liz) là chủ nhiệm dự án, còn bên phía Việt Nam Chủ nhiệm Dự án là ông Cầm Văn Đoản – nguyên Vụ trưởng vụ Nông nghiệp Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Tại hội thảo về Nghiên cứu phát triển chính sách và nhóm chính sách an ninh lương thực Việt Nam, các chuyên gia đã đưa ra những ý kiến đóng góp cho Việt Nam trong quá trình làm chính sách, để từ đó nhóm làm Dự án đề xuất Chính phủ để trình Quốc hội thông qua.

viet nam chua chu trong tu chu luong thuc
An ninh lương thực: Việt Nam chưa chú trọng tự chủ lương thực

Các chuyên gia đã chỉ ra được những hạn chế mà Việt Nam còn vướng mắc như:

Chưa thực sự chú trọng đến mục tiêu tự chủ lương thực; Công cụ bình ổn giá chưa hỗ trợ ANLT; Các chương trình hỗ trợ xã hội không thực sự đảm bảo lợi ích cho cồng đồng như hỗ trợ tiền mặt; Còn rụt rè hỗ trợ tăng trưởng sản xuất thông qua trợ cấp; Việt Nam phải đơn giản hóa chính sách nhắm nâng câp sự phối hợp giữa các chính sách với nhau.

Bên cạnh đó, các chuyên gia cho rằng Việt Nam cần khuyến khích tự do thương mại nội địa và quốc tế, cải cách thủ tục hành chính để giảm quan liêu, các quy tắc chính quy. Ngoài ra cần khuyến khích tăng tưởng nông nghiệp thông qua việc hỗ trợ nông dân quản lý rủi ro (Như thiên tai, BĐKH, xây dựng CSHT, khuyến nông), hỗ trợ nông dân tiếp cận thị trường.

Tuy còn nhiều sự bất hợp lý về chính sách nhưng Việt Nam cũng đã có một số kết quả đáng được ghi nhận, kể từ năm 2013 đã có hàng ngàn mô hình cánh đồng mẫu lớn được liên kết, xây dựng ở các địa phương với diện tích khaongr 556.000 ha. Nghê An đã xây dựng 10 mô hình cho ngô, 8 mô hình cho lạc với diện tích lên đến hơn 1000 ha, tỉnh Quảng Bình xây dựng 435ha diện tích cách đồng lớn cho cây ớt và 120 ha cánh đồng lớn cho cây sắn.

Năm 2012 cũng là năm đánh dấu thành công của ngành lương thực Việt Nam với lượng gạo xuất khẩu đạt mức kỷ lục từ trước tới nay là 7,72 triệu tấn, thu về khoảng 3,5 tỷ USD

Tú Cẩm

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC HCM 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC ĐN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Nguyên liệu 9999 - HN 74,200 ▲950K 75,150 ▲950K
Nguyên liệu 999 - HN 74,100 ▲950K 75,050 ▲950K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Cập nhật: 26/04/2024 16:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
TPHCM - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Hà Nội - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
Hà Nội - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Đà Nẵng - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
Đà Nẵng - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Miền Tây - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
Miền Tây - SJC 83.000 ▲1000K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.450 ▲450K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.450 ▲450K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.400 ▲500K 74.200 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.400 ▲370K 55.800 ▲370K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.160 ▲290K 43.560 ▲290K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.620 ▲210K 31.020 ▲210K
Cập nhật: 26/04/2024 16:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,365 ▲60K 7,570 ▲60K
Trang sức 99.9 7,355 ▲60K 7,560 ▲60K
NL 99.99 7,360 ▲60K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,340 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,430 ▲60K 7,600 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,430 ▲60K 7,600 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,430 ▲60K 7,600 ▲60K
Miếng SJC Thái Bình 8,300 ▲70K 8,510 ▲80K
Miếng SJC Nghệ An 8,300 ▲70K 8,510 ▲80K
Miếng SJC Hà Nội 8,300 ▲70K 8,510 ▲80K
Cập nhật: 26/04/2024 16:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 ▲1000K 85,200 ▲900K
SJC 5c 83,000 ▲1000K 85,220 ▲900K
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 ▲1000K 85,230 ▲900K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,700 ▲600K 75,400 ▲600K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,700 ▲600K 75,500 ▲600K
Nữ Trang 99.99% 73,600 ▲700K 74,600 ▲600K
Nữ Trang 99% 71,861 ▲594K 73,861 ▲594K
Nữ Trang 68% 48,383 ▲408K 50,883 ▲408K
Nữ Trang 41.7% 28,761 ▲250K 31,261 ▲250K
Cập nhật: 26/04/2024 16:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,112.17 16,274.92 16,797.08
CAD 18,090.44 18,273.17 18,859.45
CHF 27,072.22 27,345.68 28,223.04
CNY 3,429.67 3,464.31 3,576.00
DKK - 3,579.44 3,716.52
EUR 26,496.28 26,763.92 27,949.19
GBP 30,880.63 31,192.55 32,193.34
HKD 3,156.04 3,187.92 3,290.20
INR - 303.48 315.61
JPY 157.98 159.58 167.21
KRW 15.95 17.72 19.33
KWD - 82,209.56 85,496.44
MYR - 5,249.99 5,364.51
NOK - 2,265.53 2,361.72
RUB - 261.73 289.74
SAR - 6,740.29 7,009.77
SEK - 2,281.68 2,378.56
SGD 18,179.62 18,363.26 18,952.42
THB 605.24 672.49 698.24
USD 25,118.00 25,148.00 25,458.00
Cập nhật: 26/04/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,326 16,426 16,876
CAD 18,311 18,411 18,961
CHF 27,324 27,429 28,229
CNY - 3,456 3,566
DKK - 3,595 3,725
EUR #26,718 26,753 28,013
GBP 31,293 31,343 32,303
HKD 3,161 3,176 3,311
JPY 158.32 158.32 166.27
KRW 16.62 17.42 20.22
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,271 2,351
NZD 14,848 14,898 15,415
SEK - 2,281 2,391
SGD 18,174 18,274 19,004
THB 632.55 676.89 700.55
USD #25,125 25,125 25,458
Cập nhật: 26/04/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 26/04/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25130 25130 25450
AUD 16368 16418 16921
CAD 18357 18407 18862
CHF 27515 27565 28127
CNY 0 3460.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26927 26977 27679
GBP 31415 31465 32130
HKD 0 3140 0
JPY 159.62 160.12 164.63
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0321 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14889 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18414 18464 19017
THB 0 644.8 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8430000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 26/04/2024 16:00