Bài học cho thị trường chứng khoán Việt Nam nhìn từ Trung Quốc

11:13 | 21/07/2015

2,147 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Thị trường chứng khoán (TTCK) Trung Quốc vừa trải qua một tháng điên rồ. Các chỉ số chính là Thượng Hải Composite và Thâm Quyến Composite đã sụt giảm tới 34 và 40% số điểm...  

Thị trường chứng khoán Trung Quốc: Hậm hực sinh hỗn loạn

Thị trường chứng khoán Trung Quốc: Hậm hực sinh hỗn loạn

"Chứng khoán Trung Quốc tụt dốc nhanh”, “Nhà đầu tư cạn kiệt hy vọng, hốt hoảng”, “Chứng khoán Trung Quốc giảm nguy hiểm hơn Hy Lạp”, “Chứng khoán Trung Quốc giảm mạnh nhất 8 năm”… là những cụm từ xuất hiện liên tục trong mấy ngày qua.

Tăng trưởng nóng

Sau một thời kỳ dài gần 7 năm đi ngang và tích lũy, TTCK Trung Quốc chứng kiến một đợt sóng tăng cực kỳ mạnh mẽ, bắt đầu từ tháng 6-2014 và kéo dài liên tục đến nửa đầu năm 2015. Cụ thể, các chỉ số Thượng Hải Composite Index và Thâm Quyến Composite Index đã tăng tới 190%. Bên cạnh việc tăng giá, thanh khoản thị trường cũng đã tăng trưởng đột biến. Giá trị giao dịch trong giai đoạn gần đây đạt gần 400 tỉ USD, tăng gấp 10 lần so 12 tháng trước đó, đồng thời vượt qua TTCK Mỹ (!?).

Bài học cho thị trường chứng khoán Việt Nam nhìn từ Trung Quốc
Người chơi chứng khoán Trung Quốc thất vọng với thị trường sụt giảm

Tuy nhiên, đà tăng điểm kéo dài suốt 1 năm qua đã xuất hiện dấu hiệu đổ vỡ đầu tiên khi TTCK Trung Quốc quay đầu sụt giảm mạnh kể từ ngày 15-6-2015 với tổng mức giảm lên tới trên 30%. Thị trường phải trải qua gần 1 tháng giảm giá liên tục trong tâm lý bán tháo của các nhà đầu tư Trung Quốc. Trong đó, riêng 2 tuần đầu, Thượng Hải Composite Index đã liên tiếp đánh mất 18% số điểm. Mặc dù xen kẽ xuất hiện những phiên phục hồi ngắn sau những biện pháp giải cứu của chính phủ, điều này đã không giúp thị trường thoát ra khỏi xu thế giảm khi giá cổ phiếu, sau đó tiếp tục lao dốc mạnh mất thêm 16% số điểm nữa.

Hệ quả và hậu quả

Nguyên nhân dẫn đến tăng trưởng nóng phải kể đến các biện pháp kích thích kinh tế của chính phủ. Kể từ cuối năm 2014, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) liên tiếp giảm lãi suất và giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Lãi suất cho vay chủ chốt giảm 3 lần kể từ 11-2014 xuống còn 5,1%; lãi suất tiền gửi chủ chốt xuống mức 2,25%.

Mặc dù, mục đích của ngân hàng trung ương chủ yếu là để nhằm kích thích nền kinh tế Trung Quốc đang tăng trưởng chậm lại, điều này cũng tạo ra niềm tin về việc nới lỏng tiền tệ sẽ giúp giá cổ phiếu tăng nhanh. Trước đó, việc Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) hạ lãi suất và tiến hành các gói nới lỏng định lượng (QE) đã giúp các chỉ số chứng khoán Mỹ tăng mạnh từ 2011 đến hiện tại, do đó nhà đầu tư Trung Quốc cũng kỳ vọng chính sách nới lỏng tiền tệ lần này của PBOC sẽ giúp TTCK tiếp tục lên mạnh trong những năm tới.

Bên cạnh đó, giá vàng, giá bất động sản giảm và lãi suất tiền gửi ngân hàng ở mức thấp khiến dòng tiền trong cư dân đổ dồn sang thị trường thay thế là đầu tư cổ phiếu. Sự hấp dẫn về lợi nhuận từ xu thế tăng điểm liên tục của TTCK Trung Quốc đã khiến nhiều nhà đầu tư “đổ xô” tham gia vào thị trường, tạo thành một làn sóng đầu tư theo phong trào lan rộng trong khắp cả nước. Số liệu từ Công ty Lưu ký và Thanh toán chứng khoán Trung Quốc cho biết, hiện có hơn 90 triệu người dân hiện đang tham gia đầu tư trên TTCK. Trong vòng 12 tháng tính đến hết tháng 5-2015, nước này có thêm 40 triệu tài khoản đầu tư chứng khoán mới được mở. Riêng trong tháng 6-2015, Trung Quốc đã có thêm 7 triệu nhà đầu tư chứng khoán cá nhân.

Tăng trưởng TTCK không đi kèm với tăng trưởng kinh tế. Kinh tế Trung Quốc đang nằm trong chu kỳ suy giảm kéo dài. Tăng trưởng kinh tế chậm lại với tốc độ tăng trưởng giảm dần từ 2010. Hiện tại tăng trưởng GDP chỉ đạt 7%, bên cạnh đó, chỉ số PMI cũng liên tục giảm về sát mức 50 từ mốc 55 điểm năm 2009.

Chất lượng nhà đầu tư ở mức thấp do tỷ trọng nhà đầu tư nhỏ lẻ tham gia thị trường cao: Số lượng tài khoản chứng khoán tăng nhanh, tuy nhiên các nhà đầu tư đa số đều là nhà đầu tư cá nhân và trình độ học vấn ở mức thấp. Theo khảo sát, hơn 2/3 (68%) số nhà đầu tư mới chưa học hết phổ thông, 25% học tiểu học và gần 6% mù chữ; tỷ lệ đại học, cao đẳng chỉ chiếm 12%. Trong khi đó, các nhà đầu tư nước ngoài đã rút dần ra khỏi thị trường Trung Quốc trong quá trình tăng điểm, để lại lớp nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ với trình độ hiểu biết hạn chế, chạy đua theo xu hướng đầu tư phong trào.

Tỷ lệ đòn bảy tài chính (vay margin) ở mức cao. Tỷ lệ vốn margin/giá trị số cổ phiếu floating thị trường Trung Quốc đạt gần 9%, cao gấp 5 lần so với mức trung bình ở hầu hết các thị trường phát triển. Điều này đồng nghĩa với khi tâm lý đảo chiều, giá cổ phiếu sẽ sụt giảm rất nhanh do áp lực giải chấp margin rất lớn của thị trường.

Trung Quốc đang làm gì để cứu TTCK?

Hiện tại Chính phủ Trung Quốc đã và đang ban hành các biện pháp chưa từng có trong tiền lệ để giúp chặn đà lao dốc của TTCK nước này, như cấm cổ đông lớn và lãnh đạo của công ty niêm yết bán ra cổ phiếu trong 6 tháng tới; yêu cầu các công ty mua vào cổ phiếu và điều tra hoạt động bán khống… Những biện pháp nêu trên có thể giúp cải thiện tâm lý thị trường trong ngắn hạn, tuy nhiên với mức định giá (P/E) vẫn còn rất cao, việc điều chỉnh giảm của TTCK Trung Quốc để về sát hơn giá trị thực có thể tiếp tục sẽ diễn ra và đây cũng là điều cần thiết sau khi thị trường này đã tăng quá nóng trong thời gian qua.

Đối với Trung Quốc, việc TTCK đổ vỡ sẽ khiến một bộ phận lớn dân chúng thiệt hại nặng nề về tài sản. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lượng cầu tiêu thụ hàng hóa tại nước này, dẫn đến khó dễ cho nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng đang suy giảm của Trung Quốc vì thế có thể giảm sâu hơn nữa. Đối với thế giới, kinh tế Trung Quốc giảm tốc sẽ tác động đặc biệt mạnh đến những nước có liên hệ về chuỗi cung ứng và xuất nhập khẩu với cường quốc này (trong đó có Việt Nam).

Bài học đối với Việt Nam

TTCK Trung Quốc đổ vỡ là bài học giá trị cho các thị trường đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Mục tiêu chính sách nới lỏng tiền tệ của Chính phủ Trung Quốc về cơ bản là nhắm vào việc hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, những hiệu ứng phụ dẫn tới sự gia tăng quá mức của TTCK đã vượt ra ngoài sự kiểm soát của chính phủ nước này. Điều này cho thấy bất kỳ rủi ro nào cũng có thể xảy ra nếu thiếu sự chặt chẽ và đồng bộ trong điều hành kinh tế.

Ngoài ra, bài học cũng cho thấy tầm quan trọng của các nhà đầu tư tổ chức, nước ngoài đối với thị trường tài chính nói chung và TTCK nói riêng. Sự đổ vỡ của TTCK có một phần lớn nguyên nhân từ phong trào đầu tư mang tính chất dây chuyền của số đông lớp nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ với kiến thức hạn chế về kinh tế, tài chính.

Xét ở khía cạnh tích cực, những vấn đề của TTCK Trung Quốc lại là cơ hội đối với TTCK Việt Nam khi vốn rút ra khỏi Trung Quốc sẽ chuyển dòng sang các thị trường mới. Đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đã nổi lên và gây được nhiều sự chú ý trong con mắt nhà đầu tư tổ chức, nước ngoài. Nền kinh tế vĩ mô đang trên đà hồi phục tích cực, với nhiều cải cách và thay đổi mang tính “mở” hơn đối với quốc tế, trong đó có chính sách tăng tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư nước ngoài tại các doanh nghiệp của Việt Nam gần đây.

Đối với TTCK Việt Nam, sau khi tăng nhẹ trong tháng 5, thanh khoản bình quân toàn thị trường trong tháng 6 tăng tới 47% và đạt mức bình quân 2,2422 tỉ đồng/phiên. Theo thống kê, thanh khoản có sự cải thiện là do lực kéo của nhóm bluechips, cổ phiếu của các ngân hàng lớn tạo đà tăng cho các nhóm khác trên thị trường. Điều đó thu hút dòng tiền đầu cơ tham gia mạnh vào thị trường do tính lan tỏa. Cụ thể, cổ phiếu ngân hàng, chứng khoán và bất động sản vẫn là điểm đến ưa thích của dòng vốn ngoại. Có thể kể ra STB (658 tỉ đồng), VCB (122 tỉ đồng), BID (106 tỉ đồng), SSI (517 tỉ đồng)… Trong đó, nhóm cố phiểu của các ông lớn trong hệ thống ngân hàng như BIDV, Vietcombank và Vietinbank luôn “sốt” nhất.

Lê Tùng

Năng lượng Mới 441

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC HCM 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC ĐN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Nguyên liệu 9999 - HN 73,950 ▲700K 74,900 ▲700K
Nguyên liệu 999 - HN 73,850 ▲700K 74,800 ▲700K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Cập nhật: 26/04/2024 14:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
TPHCM - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Hà Nội - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
Hà Nội - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Đà Nẵng - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
Đà Nẵng - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Miền Tây - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
Miền Tây - SJC 82.800 ▲800K 85.000 ▲700K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.450 ▲450K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.450 ▲450K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.400 ▲500K 74.200 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.400 ▲370K 55.800 ▲370K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.160 ▲290K 43.560 ▲290K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.620 ▲210K 31.020 ▲210K
Cập nhật: 26/04/2024 14:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,345 ▲40K 7,550 ▲40K
Trang sức 99.9 7,335 ▲40K 7,540 ▲40K
NL 99.99 7,340 ▲40K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,320 ▲40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,410 ▲40K 7,580 ▲40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,410 ▲40K 7,580 ▲40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,410 ▲40K 7,580 ▲40K
Miếng SJC Thái Bình 8,300 ▲70K 8,500 ▲70K
Miếng SJC Nghệ An 8,300 ▲70K 8,500 ▲70K
Miếng SJC Hà Nội 8,300 ▲70K 8,500 ▲70K
Cập nhật: 26/04/2024 14:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,800 ▲800K 85,000 ▲700K
SJC 5c 82,800 ▲800K 85,020 ▲700K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,800 ▲800K 85,030 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,500 ▲400K 75,200 ▲400K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,500 ▲400K 75,300 ▲400K
Nữ Trang 99.99% 73,400 ▲500K 74,400 ▲400K
Nữ Trang 99% 71,663 ▲396K 73,663 ▲396K
Nữ Trang 68% 48,247 ▲272K 50,747 ▲272K
Nữ Trang 41.7% 28,678 ▲167K 31,178 ▲167K
Cập nhật: 26/04/2024 14:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,112.17 16,274.92 16,797.08
CAD 18,090.44 18,273.17 18,859.45
CHF 27,072.22 27,345.68 28,223.04
CNY 3,429.67 3,464.31 3,576.00
DKK - 3,579.44 3,716.52
EUR 26,496.28 26,763.92 27,949.19
GBP 30,880.63 31,192.55 32,193.34
HKD 3,156.04 3,187.92 3,290.20
INR - 303.48 315.61
JPY 157.98 159.58 167.21
KRW 15.95 17.72 19.33
KWD - 82,209.56 85,496.44
MYR - 5,249.99 5,364.51
NOK - 2,265.53 2,361.72
RUB - 261.73 289.74
SAR - 6,740.29 7,009.77
SEK - 2,281.68 2,378.56
SGD 18,179.62 18,363.26 18,952.42
THB 605.24 672.49 698.24
USD 25,118.00 25,148.00 25,458.00
Cập nhật: 26/04/2024 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,322 16,422 16,872
CAD 18,315 18,415 18,965
CHF 27,302 27,407 28,207
CNY - 3,456 3,566
DKK - 3,594 3,724
EUR #26,714 26,749 28,009
GBP 31,295 31,345 32,305
HKD 3,161 3,176 3,311
JPY 159.05 159.05 167
KRW 16.62 17.42 20.22
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,272 2,352
NZD 14,854 14,904 15,421
SEK - 2,279 2,389
SGD 18,174 18,274 19,004
THB 632.06 676.4 700.06
USD #25,120 25,120 25,458
Cập nhật: 26/04/2024 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 26/04/2024 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25115 25115 25445
AUD 16316 16366 16868
CAD 18338 18388 18839
CHF 27474 27524 28086
CNY 0 3458.5 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26898 26948 27650
GBP 31401 31451 32111
HKD 0 3140 0
JPY 160.45 160.95 165.46
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0313 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14883 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18403 18453 19014
THB 0 643.1 0
TWD 0 779 0
XAU 8250000 8250000 8420000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 26/04/2024 14:00