Vực doanh nghiệp bằng mọi giá

08:21 | 04/06/2012

477 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Lời khẳng định của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam trong buổi họp báo thường kỳ Chính phủ tháng 5 được cho là kim chỉ nam trong điều hành của Chính phủ từ quý II tới. Trước đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng thể hiện quyết tâm cao độ, bằng động thái ban hành nhiều văn bản thông báo giảm thêm 1% các mức lãi suất điều hành...

Tái cơ cấu và khơi thông dòng vốn

Trao đổi với Báo Năng lượng Mới, ông Nguyễn Trọng Minh, Ủy viên HĐQT Công ty Sochi Vietnam cho rằng: “Bản thân các doanh nghiệp (DN) phải coi thời điểm khó khăn này là cơ hội để tự tái cơ cấu mình. Ngày nào tư tưởng kinh doanh chụp giựt, khôn lỏi còn “thịnh” thì ngày ấy các DN còn phải chịu những cú va đập nặng nề bất thình lình. Nói nôm na thì nhóm giải pháp mà Bộ Tài chính đưa ra mới đây chỉ như liều thuốc giảm đau.

Những DN gào to nhất sẽ tạm thời hết đau, nhưng khi thuốc tan, họ đau lại và tiếp tục trông chờ những liều thuốc mới từ Chính phủ. Cuối cùng bệnh vẫn hoàn bệnh, đấy là còn chưa kể có thể gây ra những "tác dụng phụ” khi sử dụng thuốc…”, ông Minh cũng tiết lộ về hoạt động của đa số DN dùng mánh lới làm chủ đạo kinh doanh. Bản thân các DN đó cũng gặp rất nhiều khó khăn với nợ xấu (cho DN bạn vay, đầu tư và tái đầu tư dàn trải hoặc không đúng thời điểm, đúng chỗ…).

Hàng ngàn doanh nghiệp sẽ được hưởng lợi từ gói cứu trợ 29.000 tỉ đồng của Chính phủ

Ủy viên HĐQT Sochi Vietnam cho rằng, nếu một DN phá sản, sẽ có 1 DN khác mọc lên thay thế. Nhưng DN mới liệu có đảm trách được nhiệm vụ DN cũ đã và đang gánh vác không? Xử lý là để giúp đỡ DN có tương lai, có năng lực tài chính cùng hệ thống sản xuất lành mạnh. Ai ốm, cho uống thuốc. Ai ung thư thì chấp nhận từ chối chữa trị. Nhóm giải pháp 29.000 tỉ đồng mà Bộ Tài chính đưa ra, nếu không tinh tế, sẽ trở thành vướng mắc của những doanh nghiệp đang làm ăn nghiêm túc.

“Như mọi người đều biết, DN khởi đầu bằng vốn, tồn tại nhờ vốn, phát triển bằng vốn và giải thể hay không cũng… vì vốn”, nói như TS Lê Đăng Doanh, kể cả lên tới đỉnh vinh quang, các ông chủ vẫn quay cuồng với vấn đề vốn (tái đầu tư, mở rộng sản xuất, nâng cấp thương hiệu…). Bởi vậy, khi chính sách tiền tệ được thắt chặt, dòng vốn cho khối tư thương sẽ bị ảnh hưởng trước tiên.

Chuyên gia kinh tế cao cấp khẳng định, khi nền kinh tế dịch chuyển dần từ xu hướng quốc doanh sang tư nhân (có định hướng XHCN), thì đất diễn cho DN phải được mở rộng tối đa nếu muốn nền kinh tế quốc dân tiếp tục duy trì lực đẩy mạnh mẽ như thời điểm trước khủng hoảng. “Một quốc gia trẻ, có dân số xấp xỉ 90 triệu người, lại mới bước vào giai đoạn phát triển có mức tăng trưởng GDP dưới hoặc bằng 5%/năm thì đó quả là điều đáng lo ngại. Bởi thế, khi kiềm chế lạm phát có những tín hiệu khởi sắc như quý I, thì tăng trưởng vĩ mô cần được xem xét kỹ lưỡng trong quãng thời gian 7 tháng còn lại của năm 2012. Chính sách tài khóa (thu chi ngân sách nhà nước) siết chặt thì DNNN gặp khó khăn vì đầu tư công bị kiểm soát, trong khi chính sách tiền tệ thắt lại thì đương nhiên khối tư nhân phải lo lắng thôi”, TS Doanh phân tích.

Xung quanh vấn đề khơi thông nguồn vốn (được cho là đang dồi dào trong các ngân hàng TMCP), TS Trần Du Lịch, Phó trưởng đoàn ĐBQH TP HCM phán đoán, kế hoạch tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống từ 15-17% cho năm 2012 còn rất nhiều “đất” để diễn. “NHNN có kế hoạch tăng trưởng tín dụng 15-17%, nhưng sau 5 tháng đóng băng, con số đó giờ chỉ còn lại tối đa 12% cho 7 tháng cuối năm, tương đương 50 nghìn tỉ đồng/tháng. Chỉ cần NH giải ngân tốt 50% số đó là DN đã vui rồi…”.

Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, CPI được kiểm soát như hiện tại, thì CPI cả năm chắc chắn dưới 6%, trong khi chúng ta chủ trương duy trì CPI ở 1 con số. Như vậy NHNN còn tới gần 4% CPI để điều chỉnh chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa cho linh hoạt và cởi mở hơn.

Chính sách công tiến thêm một bước

Theo chỉ đạo của Chính phủ, NHNN cần có biện pháp, chỉ đạo quyết liệt để xử lý nợ xấu, trước hết là nợ xấu giữa các ngân hàng và cơ cấu lại các khoản nợ, giãn nợ… cho các DN, nhất là các DN có tiềm năng kinh doanh tốt nhưng đang khó khăn tạm thời. Phó thống đốc Nguyễn Đồng Tiến cho biết, NHNN đang và sẽ tiếp tục thực hiện điều hành lãi suất theo hướng hạ dần mặt bằng lãi suất phù hợp với mức giảm của lạm phát, để từ đó kiên quyết đưa vốn tín dụng vào các lĩnh vực, ngành nghề ưu tiên theo Nghị quyết 13…

Chủ trì buổi họp báo trên, Bộ trưởng Vũ Đức Đam tái khẳng định, nguồn vốn để thúc đẩy phát triển kinh tế trong thời gian tới là rất tốt. “Cụ thể, về chi đầu tư công thì tổng nguồn năm 2012 có 180 nghìn tỉ đồng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, cộng với 45 nghìn tỉ đồng trái phiếu Chính phủ, cộng với một số nguồn vốn tiết kiệm… tổng cộng đầu tư công có 240 nghìn tỉ đồng. Đấy là còn chưa kể hơn 3.000 nghìn tỉ vượt thu ở các địa phương. Tuy nhiên từ đầu năm đến hiện tại, chúng ta mới giải ngân được khoảng 66 nghìn tỉ đồng, tức là từ bây giờ để cuối năm chúng ta có thể giải ngân 25 nghìn tỉ đồng/tháng”, Bộ trưởng Vũ Đức Đam khẳng định: Chính phủ đang điều hành nhịp nhàng, đúng lúc. Đồng tiền trong tay rất quan trọng, nhưng đầu tư lúc nào, ở đâu, vào ngành hàng, hạng mục nào cho hợp lý mới là điều Chính phủ quan tâm hơn cả”.

Theo đánh giá của Thường trực Chính phủ, từ giờ đến cuối năm, việc chi tiêu công có nới lỏng cũng không sợ đẩy lạm phát. Và dư địa vốn đầu tư công còn rất lớn. Vấn đề là khi đưa tiền ra phải gắn với đầu tư công, đầu tư đúng chỗ, đúng lúc, không đầu tư tràn nan, nguyên tắc đầu tư vào những chỗ có thể làm xong, gọn, phát huy ngay hiệu quả kinh tế xã hội, đồn thời gắn với việc giúp doanh nghiệp…

Ông Đam cũng cho biết, hiện tại dòng tiền trong ngân hàng là tốt. Vì thế, nếu bây giờ tập trung bơm tiền ra thì sẽ bơm vào những chỗ để vừa gắn với việc tháo gỡ cho doanh nghiệp, ngành nghề nào và theo đúng chương trình tái cơ cấu doanh nghiệp, như doanh nghiệp ở nông thôn, doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp đưa công nghệ mới… đồng thời đẩy mạnh các công trình vừa giải ngân vốn đầu tư công và hỗ trợ cho doanh nghiệp. Những thuận lợi trên cho thấy dư địa để thúc đẩy phát triển kinh tế, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp còn rất lớn. Tuy tín dụng còn rất cao, hơn 2%/tháng, lãi suất đã giảm nhưng vẫn còn chưa hợp lý, phải tiếp tục được cải thiện, để phù hợp với mục tiêu giảm của lạm phát Chính phủ quyết tâm theo đuổi.

{lang: 'vi'}

Hữu Tùng

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,500 ▼500K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC HCM 81,500 ▼500K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC ĐN 81,500 ▼500K 83,700 ▼300K
Nguyên liệu 9999 - HN 73,300 ▼150K 74,250 ▼150K
Nguyên liệu 999 - HN 73,200 ▼150K 74,150 ▼150K
AVPL/SJC Cần Thơ 81,500 ▼500K 83,700 ▼300K
Cập nhật: 25/04/2024 10:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 74.800
TPHCM - SJC 82.300 84.300
Hà Nội - PNJ 73.000 74.800
Hà Nội - SJC 82.300 84.300
Đà Nẵng - PNJ 73.000 74.800
Đà Nẵng - SJC 82.300 84.300
Miền Tây - PNJ 73.000 74.800
Miền Tây - SJC 81.500 ▼1000K 83.800 ▼700K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 73.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 55.430
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 43.270
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 30.810
Cập nhật: 25/04/2024 10:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,285 ▼35K 7,500 ▼25K
Trang sức 99.9 7,275 ▼35K 7,490 ▼25K
NL 99.99 7,280 ▼35K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,260 ▼35K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,350 ▼35K 7,530 ▼25K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,350 ▼35K 7,530 ▼25K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,350 ▼35K 7,530 ▼25K
Miếng SJC Thái Bình 8,180 ▼60K 8,380 ▼60K
Miếng SJC Nghệ An 8,180 ▼60K 8,380 ▼60K
Miếng SJC Hà Nội 8,180 ▼60K 8,380 ▼60K
Cập nhật: 25/04/2024 10:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 81,500 ▼1000K 83,800 ▼700K
SJC 5c 81,500 ▼1000K 83,820 ▼700K
SJC 2c, 1C, 5 phân 81,500 ▼1000K 83,830 ▼700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 74,800 ▼100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 74,900 ▼100K
Nữ Trang 99.99% 72,900 74,000 ▼100K
Nữ Trang 99% 71,267 ▼99K 73,267 ▼99K
Nữ Trang 68% 47,975 ▼68K 50,475 ▼68K
Nữ Trang 41.7% 28,511 ▼42K 31,011 ▼42K
Cập nhật: 25/04/2024 10:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,095.55 16,258.14 16,779.72
CAD 18,066.09 18,248.58 18,834.02
CHF 27,070.48 27,343.92 28,221.15
CNY 3,431.82 3,466.48 3,578.23
DKK - 3,577.53 3,714.53
EUR 26,481.22 26,748.71 27,933.23
GBP 30,827.96 31,139.35 32,138.35
HKD 3,160.58 3,192.50 3,294.92
INR - 303.87 316.02
JPY 158.45 160.06 167.71
KRW 15.94 17.71 19.32
KWD - 82,205.72 85,492.23
MYR - 5,253.88 5,368.47
NOK - 2,265.78 2,361.97
RUB - 261.72 289.72
SAR - 6,750.57 7,020.45
SEK - 2,288.25 2,385.40
SGD 18,184.25 18,367.93 18,957.20
THB 604.07 671.19 696.90
USD 25,137.00 25,167.00 25,477.00
Cập nhật: 25/04/2024 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,262 16,362 16,812
CAD 18,279 18,379 18,929
CHF 27,297 27,402 28,202
CNY - 3,462 3,572
DKK - 3,593 3,723
EUR #26,705 26,740 28,000
GBP 31,245 31,295 32,255
HKD 3,166 3,181 3,316
JPY 159.92 159.92 167.87
KRW 16.64 17.44 20.24
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,271 2,351
NZD 14,832 14,882 15,399
SEK - 2,284 2,394
SGD 18,196 18,296 19,026
THB 629.8 674.14 697.8
USD #25,166 25,166 25,476
Cập nhật: 25/04/2024 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,175.00 25,177.00 25,477.00
EUR 26,671.00 26,778.00 27,961.00
GBP 31,007.00 31,194.00 32,152.00
HKD 3,181.00 3,194.00 3,297.00
CHF 27,267.00 27,377.00 28,214.00
JPY 159.70 160.34 167.58
AUD 16,215.00 16,280.00 16,773.00
SGD 18,322.00 18,396.00 18,933.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,215.00 18,288.00 18,819.00
NZD 14,847.00 15,342.00
KRW 17.67 19.30
Cập nhật: 25/04/2024 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25195 25195 25487
AUD 16325 16375 16880
CAD 18364 18414 18869
CHF 27519 27569 28131
CNY 0 3469.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26892 26942 27645
GBP 31326 31376 32034
HKD 0 3140 0
JPY 161.93 162.43 166.97
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0346 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14885 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18459 18509 19066
THB 0 646 0
TWD 0 779 0
XAU 8230000 8230000 8400000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 25/04/2024 10:00