Vĩnh biệt nhà thơ quê hương

09:56 | 26/01/2023

143 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Nhà thơ Giang Nam được ví nhà thơ của “hai nửa cuộc đời”. Nửa cuộc đời ông dành cho thơ, nửa cuộc đời ông dành cho “em du kích”. Ông đã rời cõi dương gian, nhưng những bài thơ “lãng mạn mà sâu sắc, chân thực mà thấm thía, đọc để soi lại mình, đọc để ứa nước mắt” vẫn đọng mãi trong tim triệu triệu người dân Việt và bạn bè thi hữu. Cảm ơn ông đã để lại thế gian những bài thơ sâu sắc, lắng đọng - những bài thơ rất Việt Nam của thế kỷ XX.
Vĩnh biệt nhà thơ quê hương
Nhà thơ Giang Nam nói về cuộc thơ ông như hai nửa cuộc đời

Tôi xin kể lại chuyện xưa

6 năm trước, ngày 22/3/2017, tôi may mắn được gặp nhà thơ Giang Nam trong lần hai câu lạc bộ thơ Vũng Tàu và Trăng thơ Nha Trang giao lưu thơ ca tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Trong nhiều chuyện ông kể về cuộc đời làm thơ, chuyện vợ ông hai lần bị địch bắt, khiến nhiều người rơi nước mắt, ông bảo: “Đời tôi với thơ là một. Thơ là nhựa sống, là nhịp thở cho tôi tồn tại. Tôi biết làm thơ thời còn trai trẻ, song Quê hương là bài thơ có thực trong đời tôi. Em du kích ngày đó là hình ảnh vợ tôi chứ không phải hư cấu”.

Bên bàn ghế đá giữa thi đàn câu lạc bộ Trăng thơ, nhà thơ Giang Nam kể: Năm 1959, cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mỹ của Việt Nam bước vào giai đoạn quyết liệt. Để đàn áp và dập tắt phong trào đấu tranh chống chế độ Mỹ, Ngụy ở khắp miền Nam Việt Nam của nhân dân ta, Đế quốc Mỹ đã tiến hành “Luật 10-59, tố cộng, diệt công”. “Lúc đó tôi tròn tuổi 30 làm ở Ty thông tin huyện Ninh Hòa (Khánh Hòa). Vợ chồng cưới nhau được 4 năm, song xa nhau biền biệt. Do hoạt động cách mạng bảo đảm bí mật, nên cả hai vợ chồng không lộ diện. Có lúc, thấy vợ mình đó mà phải làm ngơ để che mắt địch”, Giang Nam chia sẻ.

Vĩnh biệt nhà thơ quê hương
Tác giả Mai Thắng với nhà thơ Giang Nam. Ảnh: Mộng Xuân

"Cô du kích trong thơ bị giặc giết quăng xác, có phải vợ của ông không thưa nhà thơ?", tôi hỏi. Giang Nam ngồi trồi trầm ngâm. Ông nhìn tôi cười hiền bảo: “Người chết trong khám lúc đó là người khác chứ không phải vợ tôi. Lúc đó nó phao tin để chiêu hồi tôi. Sau hai năm đau buồn thì tự nhiên bà ấy dẫn con về”.

Đoạn, Giang Nam kể: Để tránh sự phát hiện của địch, theo chỉ đạo của cơ sở cách mạng, ông và vợ - bà Phạm Thị Triều khẩn cấp ra vùng ngoại tuyến tận Biên Hòa tỉnh Đồng Nai hoạt động cách mạng. Tại đây, ông bà được bố trí một gian nhà chật hẹp trong phố. Cũng thời gian này, bà Triều mang thai và sinh con gái đầu lòng. Tình hình thay đổi, cách mạnh yêu cầu Giang Nam quay về Ninh Hòa (Khánh Hòa) tiếp tục hoạt động cách mạng. Giờ chia tay, bà Triều bế con gái đỏ hỏn tiễn biệt chồng, Giang Nam nhìn vợ con rơi nước mắt. Họ biệt ly trong nhớ thương và hẹn ngày đoàn viên. Đây cũng là lần thứ hai vợ chồng biền biệt xa nhau.

Một chiều tháng 4 năm 1960, vợ bà Triều dẫn cô con gái nhỏ đi bán khoai lang trên đường phố thì bị địch bắt rồi đưa đi Sài Gòn Gia Định giam trong nhà tù Phú Lợi. “Khi vợ con bị bắt, tui buồn lắm. Nhưng khi nghe tin vợ và con gái bị giết, tôi như chết nửa người. Hình ảnh con gái đỏ hỏn lúc chia tay lúc nào cũng cũng ám ảnh trong đầu. Vì quá đau buồn, tôi đã viết bài thơ quê hương trong căn cứ bí mật trong vòng một đêm. Lúc đó viết dưới đèn dầu chứ không có điện như bây giờ”, Giang Nam hồi tưởng lại.

Một sáng mùa thu năm 1962, trong niềm thương tiếc chưa nguôi ngoai, Giang Nam một lần nữa chết lặng người khi nhìn thấy vợ bỗng dưng dẫn con gái từ đâu xuất hiện trước mặt mình. Sau gần một ngàn ngày khắc khoải, đau thương chưa vơi, nhìn thấy vợ con trở về, ông bừng tỉnh hết ngỡ ngàng này đến ngỡ ngàng khác. “Con thì tôi không nhận ra vì lúc chia tay nó đỏ hỏn à, nhưng vợ thì tôi không quên được. Bà ấy chạy ào đến gục đầu vào vai tôi khóc. Tôi cầm bàn tay bà ấy đưa lên ngực tôi. Lúc đó tôi mừng quá quên bế con, đến lúc con bé khóc tôi mới quỳ xuống bế nó”, Giang Nam kể lại.

Thế hệ người Việt Nam sinh ở cuối thập niên 60 trở về trước của thế kỷ XX, hầu như ai cũng biết và thuộc lòng bài thơ Quê hương của nhà thơ nổi tiếng - Giang Nam, song không phải ai cũng tường tận cuộc đời ông giữa thơ ca và đời thực gắn liền với nhau như máu thịt. Đời ông phân làm hai nửa, một nửa dành cho thơ ca, một nửa dành cho “em du kích” - người vợ quá cố mà ông yêu hơn bản thân mình.

Hỏi về hình ảnh “em du kích” trong bài thơ quê hương có phải vợ ông không, Giang Nam chia sẻ: “Lúc đó tôi quá đau khổ. Dưới ngọn đèn dầu, đêm đó tôi vừa viết, vừa khóc. Các bạn đọc câu “giặc giết em rồi quăng mất xác, bởi vì em là du kích em ơi” quá bi đát, nhưng cũng rất tự hào. Hình ảnh cô du kích là vợ tôi, nhưng thân xác thì không phải. Thật lòng, nếu không có sự kiện địch bắt vợ con tui đem giam trong nhà tù Phú Lợi rồi phao tin vợ con tui bị giặc giết, chắc hẳn tui không có cảm xúc như vậy. Cả đời làm cách mạng, vợ chồng ở bên nhau thời gian chẳng được bao lâu. Năm 1968, bà ấy bị bắt lần hai cùng con gái do bị lộ vì sơ suất nhỏ. Năm 1973, tức là sau hiệp định Paris bà ấy được trao trả. Lúc đó con gái cũng đã lớn, vợ chồng tuổi cao nên không sinh con nữa. Bà nhà mất năm 2013 tại thành phố Nha Trang này”.

Trong buổi giao lưu thơ nhạc giữa hai câu lạc bộ thơ Vũng Tàu và Trăng thơ Nha Trang, có gần 200 nhà thơ, thi nhân, người yêu thơ đến từ Vũng Tàu, Nha Trang, Đà Lạt tới dự. Hàng trăm bài thơ ngợi ca tình yêu quê hương đất nước được các nhà thơ ngâm, đọc trên thi đàn. Hôm đó, tôi được lạc bộ thơ Vũng Tàu cử ngâm bài thơ Quê hương và coi đó là món quà đặc biệt tặng Giang Nam với tư cách là một thi hữu khoác áo hải quân.

Vĩnh biệt nhà thơ quê hương
Giang Nam và các thi hữu giữa thi đàn

Ngồi dưới hàng ghế đại biểu đặc biệt, thêm một lần nữa, Giang Nam rơi nước mắt. Những lời thơ: “Hôm nay nhận được tin em, không tin được dù đó là sự thực, giặc giết em rồi quăng mất xác, bởi vì em là du kích em ơi” thấm vào gan ruột. Tôi ngâm xong bài thơ, Giang Nam ôm chặt vai tôi, mắt rưng rưng bảo: “Cảm ơn em. Em phải yêu thơ tôi lắm mới ngâm hay như vậy”.

Ông khóc. Giọt nước mắt của nhà thơ gạo cội 58 năm trước khóc vì quá đau buồn nhận tin vợ con bị giặc giết. Còn hôm ấy, ông khóc vì xúc động chen lẫn sung sướng, tự hào. Ông khóc, bởi nhiều người vẫn nhớ đến thơ ông, vẫn nhớ đến “Quê hương” - bài thơ trở thành kinh điển hay nhất trong cuộc đời thơ ca của ông ở thế kỷ XX. “Đời tôi gắn liền với thơ. Nó là nhựa sống, là nửa tâm hồn tôi”, Giang Nam nói.

Vĩnh biệt nhà thơ quê hương
Vĩnh biệt nhà thơ quê hương

Phiên bản “quê hương 2” của Giang Nam

Trước khi “Quê hương” ra đời, Giang Nam có bài thơ khác mang tên “Nghe tin em vào đại học”. Ông chia sẻ: “Quê hương là bài thơ tôi tâm đắc nhất. Nói đến bài thơ Quê hương, những người sinh ra ở cuối thập niên 60 thế kỷ XX trở về trước, hầu như ai cũng biết, cũng thuộc, còn lớp trẻ bây giờ không ai biết. Từ bài thơ Quê hương ngày xưa, tôi đã sáng tác “phiên bản Quê hương 2”. Bài này thì lớp trẻ nay nhiều người nhớ.

Giang Nam đưa cho tôi xem cuốn sổ nhỏ ghi chép dầy dít chữ. Trong đó có bài thơ Quê hương được ông sáng tác “phiên bản 2” cùng tên.

Quê hương

Tuổi còn thơ ngày hai buổi đến trường

Cặp nặng oằn vai nhét đầy sách vở

Ai bảo đi học không khổ

Tai lùng bùng mặc chim hót trên cao

Hãi quá, đành trốn học rủ bạn tắm cầu ao

Mẹ bắt được thấy bầm vai con mẹ khóc

Học về bé nào cũng mệt nằm lăn lóc

Cơm nước chẳng màng xanh xao quá đi thôi

Quá tải triền miên lãnh đủ trường kỳ

Lâm bệnh nặng, tôi đi

Có ai ngờ mấy đứa nhà bên cũng vào bệnh viện

Gặp nhau chào bằng nụ cười méo miệng

Khoe lưng bầm thương thương quá đi thôi

Xưa đi học vì muốn sung muốn sướng

Những nụ cười rạng rỡ nở trên môi

Nay quá “oải” vì trong từng niên khóa

Gặp chương trình cải cách kiểu trời ơi!

Vĩnh biệt nhà thơ quê hương
Sinh thời, Nhà thơ Giang Nam rất thích hoa hồng. Bởi vậy mỗi lần đọc thơ, thi hữu tặng quà cho ông là những đóa hoa hồng tươi thắm.

Thế hệ học trò Việt mãi nhắc tên ông

Chiều 23/1, tôi có chuyến công tác đầu năm mới tại Bình Thuận. Vào đọc báo mạng, tình cờ dòng tin hiện lên trước mắt tôi trên báo điện tử Thanh niên: “Nhà thơ Giang Nam đã về với quê hương”. Báo Quân đội Nhân dân đưa tin “Nhà thơ Giang Nam - tác giả bài thơ Quê hương qua đời”. Báo Nghệ An viết “Bái biệt nhà thơ Giang Nam”.

Tôi sựng người. Mới ngày nào tôi gặp ông ở Nha Trang. Mới ngày nào tôi xin phép ngâm bài thơ Quê hương của ông giữa thi đàn với tư cách là người lính biển. Vâỵ mà ông đã ra đi.

Dẫu sinh tử biệt ly là quy luật “sinh lão bệnh tử” của mỗi đời người, song tôi vẫn cảm thấy mất đi một điều gì đó thiêng liêng và gần gũi đến lạ thường.

Vĩnh biệt Giang Nam - nhà thơ gạo cội của quê hương Việt Nam. Ông đã để lại trong thế hệ học trò Việt Nam những thập niên 50, 60, 70, 80 của thế kỷ XX một Quê hương dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và vô cùng xúc động. Để rồi mỗi khi đọc xong, ai cũng có thể rơi nước mắt vì xúc động. Ai cũng có thể “soi thấy” mình trong bài thơ ấy. Dù văn học hiện đại thế nào chăng nữa, “Quê hương” vẫn mãi là tác phẩm bất tử trong lòng người Việt. Bởi nó là bài thơ “độc” giàu nhân văn, đậm nghĩa ân tình, mộc mạc chân thành ông viết từ máu và nước mắt, viết từ cuộc đời và hơi thở nhựa sống từ trái tim ông.

Nhà thơ Giang Nam tên thật là Nguyễn Sung, quê gốc ở xã Ninh Bình, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Ông sinh năm 1929 trong gia đình nho học. Ông tham gia hoạt động cách mạng Việt Minh từ tháng 8/1945 và làm thơ từ thời trai trẻ. Nhưng thơ ông chính thức được nhiều người biết đến từ năm 1955-1960, trong đó có bài thơ kinh điển nổi tiếng Quê hương đưa vào trích giảng văn học phổ thông trong hệ thống giáo dục đào tạo Việt Nam ở thế kỷ XX. Cho đến bây giờ, Giang Nam sở hữu hơn 200 bài thơ nhiều thể loại khác nhau với 11 tập, song chưa bài thơ nào vượt qua bài thơ Quê hương. Năm 1961, bài thơ này đã đoạt giải Nhì về thơ báo văn nghệ.

Động lực mới cho văn học Việt NamĐộng lực mới cho văn học Việt Nam
3 nhà thơ Việt Nam đọc thơ trong sự kiện “Trái đất là ngôi nhà chung”3 nhà thơ Việt Nam đọc thơ trong sự kiện “Trái đất là ngôi nhà chung”
Thơ đọc chậm để cảm nhận tình yêu qua những nỗi đauThơ đọc chậm để cảm nhận tình yêu qua những nỗi đau

Mai Thắng