Thị trường năng lượng - những vấn đề cấp bách

16:43 | 28/03/2014

866 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Ngày 28/3 tại trụ sở Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Hà Nội), Ban Kinh tế Trung ương, Bộ Công Thương phối hợp cùng Hiệp hội Năng lượng Việt Nam tổ chức Hội thảo quốc tế “Phát triển thị trường năng lượng Việt Nam”.

Toàn cảnh buổi Hội thảo.

Tham dự Hội thảo, có đồng chí Phạm Xuân Đương - Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó trưởng ban thường trực Ban kinh tế Trung ương; đồng chí Nguyễn Văn Thạo - Trợ lý Chủ tịch nước;  đồng chí Nguyễn Cao Lục - Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ cùng đại diện các Bộ, ngành Trung ương và địa phương.

Ngoài ra, Hội thảo còn có sự tham dự của đại diện các Tổ chức quốc tế, Ngân hàng thế giới (WB), JICA, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)...

Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam Trần Viết Ngãi; Phó tổng giám đốc PVN Nguyễn Quốc Khánh và Phó tổng giám đốc EVN Dương Quang Thành điều hành Hội thảo.

Phát biểu đề dẫn, Phó trưởng ban Kinh tế Trung ương Phạm Xuân Đương khẳng định: Trong 30 năm qua, cùng đất nước đổi mới, với sự nỗl ực của ngành,vượt quan nhiều khó khăn thử thách năng lượng Việt Nam đã có bước phát triển nhanh, sản lượng tăng bình quân 14%/năm (giai đoạn 2010-2013), từng bước đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, hơn 98% dân cư được sử dụng điện. Ngành năng lượng đã có những đóng góp to lớn,đặc biệt là thu ngân sách quốc gia (chiếm trên 30% tổng thu ngân sách hàng năm), an ninh năng lượng ngày càng được củng cố và tăng cường.

Ông Phạm Xuân Đương phát biểu đề dẫn.

Thị trường năng lượng Việt Nam đã có định hướng phát triển theo lộ trình đối với từng lĩnhvực cụ thể. Hoạt động phân phối năng lượng cũng đã trải qua các giai đoạn tương ứng, từ phương thức cung cấp theo định lượng, áp dụng một mức giá thống nhất đến mua bán theo nhu cầu, thông qua hợp đồng kinh tế. Bước đầu, Việt Nam đã thực hiện điều chỉnh giá điện, giá than theo cơ chế thị trường.

Tuy vậy, năng lượng Việt Nam vẫn còn những hạn chế, xuất hiện tình trạng mất cân đối giữa các phân ngành năng lượng, giữa cung ứng và nhu cầu, giữa nhu cầu đầu tư và nguồn vốn đầu tư. Phân bố hệ thống năng lượng theo vùng, lãnh thổ còn thiếu cân đối. Công nghệ của hệ thống các nhà máy điện chỉ đạt trình độ trung bình so với trình độ công nghệ của một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Chất lượng hệ thống lưới điện không đảm bảo, tổn thất điện năng còn lớn. Hiệu suất chung của ngành năng lượng thấp; sử dụng năng lượng chưa tiết kiệm và chưa hiệu quả, cường độ năng lượng và cường độ điện cao hơn mức trung bình của thế giới; đầu tư cho sự phát triển năng lượng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế xã hội; tiến độ của nhiều dự án còn chậm... Phát triển năng lượng chưa thực sự gắn kết với giữ gìn môi trường sinh thái nhằm bảo đảm thực hiện phát triển năng lượng bền vững.

Ông Trần Viết Ngãi trả lời phỏng vấn.

Đứng ở góc độ cơ quan phản biện, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Trần Viết Ngãi tiếp tục đưa ra những  ý kiến giá trị. “Với cải cách kinh tế thị trường thì việc cải cách bộ máy Nhà nước cũng hết sức quan trọng. Rõ ràng là thị trường không dung nạp được cơ chế xin cho, muốn dẹp bỏ được cơ chế này thì trước hết phải cải cách vai trò của Nhà nước,” ông Ngãi nêu rõ quan điểm. “Việc tập trung vào cải cách doanh nghiệp nhà nước minh bạch và xóa bỏ độc quyền sẽ là một động lực tự nhiên góp phần thúc đẩy bộ máy Nhà nước; chẳng hạn tách chức năng quản lý nhà nước với chức năng chủ sở hữu, tách chức năng làm chính sách với chức năng giám sát thị trường nếu làm được như vậy thì việc cải cách và phát triển thị trường năng lượng Việt Nam sẽ được thúc đẩy một cách mạnh mẽ. Công khai các dự án đầu tư, khuyến khích các thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia đầu tư vào các lĩnh vực năng lượng, đồng thời  tăng nguồn vốn ngân sách nhà nước cho các dự án năng lượng nông thôn, miền núi, hải đảo.” 

Tham luận tại Hội thảo, đại diện các Tập đoàn Điện lực, Tập đoàn công nghiệp Than-Khoáng sản và Tập đoàn Dầu khí đều thống nhất quan điểm, năng lượng là một trong các ngành quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân, là động lực của quá trình phát triển đất nước. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng ta đã chỉ rõ: “Phát triển năng lượng phải đi trước một bước, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia”. Đây là nhiệm vụ quan trọng và nặng nề, nhưng rất vinh quang của ngành năng lượng nói chung và ngành than, điện, dầu khí, nói riêng.

Tựu chung, vấn đề thu xếp vốn để đầu tư phát triển nhanh các dự án thượng nguồn và vấn đề thị trường thực thụ cho các ngành năng lượng vẫn là bài toán khó nhất.

Ông Nguyễn Quốc Khánh - Phó Tổng giám đốc PVN trình bày tham luận tại Hội thảo.

Các tham luận của những Tập đoàn trụ cột của năng lượng cho thấy, Việt Nam nằm trong top những nước tiêu thụ năng lượng tương đối lớn so với khu vực và trên thế giới. Tăng trưởng kinh tế liên tục với tốc độ khá cao của Việt Nam làm tăng nhu cầu sử dụng năng lượng. Dự báo nhu cầu điện của Quy hoạch Điện VII, tăng trưởng nhu cầu năng lượng của Việt Nam là 8,1-8,7% giai đoạn (2001-2020), trong đó năm 2010 trên 100 tỷ kWh, năm 2020 là 330-362 tỷ kWh, năm 2030 là 695-834 tỷ kWh. Nhu cầu than riêng cho ngành điện vào năm 2020 với công suất các nhà máy điện than là 36 nghìn MW để sản xuất 154,44 tỷ kWh, sẽ tiêu thụ 67,3 triệu tấn than. Dự báo đén năm 2030, công suất các nhà máy nhiệt điện than là 75.748 MW để sản xuất 391,98 tỷ kWh, tiêu thụ tới 171 triệu tấn than.

Phát biểu tham luận tại Hội thảo, ông Nguyễn Quốc Khánh cho biết: Với ngành dầu khí, kinh nghiệm triển khai các dự án khí trong thời gian qua cho thấy việc thống nhất giá khí thường kéo dài. Với việc nguồn cung khí từ các mỏ hiện có đang dần bị suy giảm, sự chênh lệch về giá khí đầu vào từ các nguồn khí khác nhau ngày một mở rộng, để có thể đảm bảo nguồn cung cấp khí phục vụ cho nhu cầu năng lượng của quốc gia; trong những năm tới Chính phủ cần có những chính sách đột phát, giải tỏa các vướng mắc trên, đảm bảo lợi nhuận khuyến khích các nhà thầu đầu tư vào các dự án khí thượng nguồn/trung nguồn; hỗ trợ PVN như là một Bên trong quá trình triển khai các dự án khai thác khí cũng như nhập khẩu khí LNG.

Tập đoàn Dầu Khí kiến nghị Chính phủ/Bộ Công Thương sớm phê duyệt Cơ chế kinh doanh khí & Phương án giá bán khí theo thị trường, theo đó thống nhất áp dụng một giá khí khu vực áp dụng cho từng loại khách hàng: sản xuất điện (trừ nhà máy điện Hiệp Phước và lượng khí trong bao tiêu của các nhà máy điện BOT như Phú Mỹ 2.2 & Phú Mỹ 3); sản xuất đạm; sản xuất hóa chất/hóa dầu; khách hàng công nghiệp trong đó giá khí bán cho khách hàng sản xuất công nghiệp được tính theo mức cạnh tranh với nhiên liệu thay thế FO hoặc LPG.

Hữu Tùng – Thanh Ngọc

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 87,500 ▲1500K 89,000 ▲1500K
AVPL/SJC HCM 87,500 ▲1500K 89,000 ▲1500K
AVPL/SJC ĐN 87,500 ▲1500K 89,000 ▲1500K
Nguyên liệu 9999 - HN 74,500 ▼900K 75,300 ▼900K
Nguyên liệu 999 - HN 74,400 ▼900K 75,200 ▼900K
AVPL/SJC Cần Thơ 87,500 ▲1500K 89,000 ▲1500K
Cập nhật: 13/05/2024 15:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.900 76.800
TPHCM - SJC 87.500 ▼1300K 90.000 ▼1300K
Hà Nội - PNJ 74.900 76.800
Hà Nội - SJC 87.500 ▼1300K 90.000 ▼1300K
Đà Nẵng - PNJ 74.900 76.800
Đà Nẵng - SJC 87.500 ▼1300K 90.000 ▼1300K
Miền Tây - PNJ 74.900 76.800
Miền Tây - SJC 87.700 ▼1300K 90.000 ▼1300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.900 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 87.500 ▼1300K 90.000 ▼1300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.900
Giá vàng nữ trang - SJC 87.500 ▼1300K 90.000 ▼1300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.900
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.800 75.600
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.450 56.850
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.980 44.380
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.200 31.600
Cập nhật: 13/05/2024 15:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,445 ▼40K 7,630 ▼40K
Trang sức 99.9 7,435 ▼40K 7,620 ▼40K
NL 99.99 7,440 ▼40K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,420 ▼40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,510 ▼40K 7,660 ▼40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,510 ▼40K 7,660 ▼40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,510 ▼40K 7,660 ▼40K
Miếng SJC Thái Bình 8,750 ▼130K 9,000 ▼150K
Miếng SJC Nghệ An 8,750 ▼130K 9,000 ▼150K
Miếng SJC Hà Nội 8,750 ▼130K 9,000 ▼150K
Cập nhật: 13/05/2024 15:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 87,500 ▼1300K 90,000 ▼1300K
SJC 5c 87,500 ▼1300K 90,020 ▼1300K
SJC 2c, 1C, 5 phân 87,500 ▼1300K 90,030 ▼1300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 ▼50K 76,500 ▼50K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 ▼50K 76,600 ▼50K
Nữ Trang 99.99% 74,700 ▼50K 75,700 ▼50K
Nữ Trang 99% 72,950 ▼50K 74,950 ▼50K
Nữ Trang 68% 49,131 ▼34K 51,631 ▼34K
Nữ Trang 41.7% 29,220 ▼21K 31,720 ▼21K
Cập nhật: 13/05/2024 15:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,336.96 16,501.98 17,031.33
CAD 18,123.37 18,306.44 18,893.66
CHF 27,355.96 27,632.28 28,518.66
CNY 3,445.73 3,480.54 3,592.73
DKK - 3,606.49 3,744.58
EUR 26,702.56 26,972.28 28,166.60
GBP 31,044.70 31,358.28 32,364.18
HKD 3,173.89 3,205.95 3,308.79
INR - 303.80 315.94
JPY 158.36 159.96 167.61
KRW 16.06 17.84 19.46
KWD - 82,614.72 85,917.26
MYR - 5,315.22 5,431.13
NOK - 2,295.79 2,393.26
RUB - 261.35 289.31
SAR - 6,767.08 7,037.59
SEK - 2,298.52 2,396.10
SGD 18,313.38 18,498.37 19,091.75
THB 610.93 678.81 704.81
USD 25,149.00 25,179.00 25,479.00
Cập nhật: 13/05/2024 15:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,557 16,657 17,107
CAD 18,362 18,462 19,012
CHF 27,613 27,718 28,518
CNY - 3,479 3,589
DKK - 3,627 3,757
EUR #26,961 26,996 28,256
GBP 31,486 31,536 32,496
HKD 3,183 3,198 3,333
JPY 159.93 159.93 167.88
KRW 16.79 17.59 20.39
LAK - 0.9 1.26
NOK - 2,302 2,382
NZD 15,043 15,093 15,610
SEK - 2,293 2,403
SGD 18,346 18,446 19,176
THB 638.53 682.87 706.53
USD #25,245 25,245 25,479
Cập nhật: 13/05/2024 15:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,175.00 25,179.00 25,479.00
EUR 26,876.00 26,984.00 28,193.00
GBP 31,199.00 31,387.00 32,373.00
HKD 3,192.00 3,205.00 3,311.00
CHF 27,540.00 27,651.00 28,522.00
JPY 159.42 160.06 167.40
AUD 16,475.00 16,541.00 17,050.00
SGD 18,443.00 18,517.00 19,073.00
THB 675.00 678.00 706.00
CAD 18,263.00 18,336.00 18,884.00
NZD 15,058.00 15,568.00
KRW 17.76 19.42
Cập nhật: 13/05/2024 15:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25220 25220 25479
AUD 16600 16650 17160
CAD 18407 18457 18913
CHF 27810 27860 28422
CNY 0 3482.8 0
CZK 0 1030 0
DKK 0 3640 0
EUR 27170 27220 27930
GBP 31616 31666 32326
HKD 0 3250 0
JPY 161.25 161.75 166.3
KHR 0 5.6733 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.0388 0
MYR 0 5520 0
NOK 0 2305 0
NZD 0 15085 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2320 0
SGD 18586 18636 19198
THB 0 651 0
TWD 0 780 0
XAU 8750000 8750000 9000000
XBJ 7000000 7000000 7420000
Cập nhật: 13/05/2024 15:45