Ô tô giá rẻ, bao giờ tới lượt Việt Nam?

10:19 | 05/02/2014

2,563 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Cùng khối ASEAN, trong khi dân Thái Lan, Indonesia dễ dàng mua được ô tô với giá rẻ thì tại Việt Nam, giá ô tô quá đắt đỏ. Giấc mơ mua ô tô giá rẻ còn quá xa vời.

Nhìn sang Thái, Indo phát thèm

Tại Indonesia, 5 năm trước, Chính phủ đã lên kế hoạch phát triển xe cỡ nhỏ, giá rẻ. Xe giá rẻ được quy định rõ có giá từ 4.400 USD đến 7.400 USD, tiêu thụ nhiên liệu tối đa 5 lít/100 km. Tỷ lệ nội địa hóa bắt buộc là 60%. 

Mục tiêu của Indonesia là để người dân có mức thu nhập từ trung bình có cơ hội sở hữu xe hơi, đồng thời tăng sản lượng, phát triển công nghiệp ôtô. Đón đầu cơ hội xuất khẩu xe sang thị trường Đông Nam Á, theo cam kết hiệp định thương mại tự do AFTA. Indonesia áp dụng hai mức thuế cơ bản là thuế nhập khẩu và thuế hàng xa xỉ như thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam. 

Thuế nhập khẩu ở mức 40% dành cho xe nguyên chiếc. Nếu lắp ráp dạng CKD thuế nhập là 10% và lắp dưới dạng IKD thuế là 7,5-8%. 

Thuế xa xỉ phân theo các dung tích động cơ, dao động trong khoảng 30-75%. Riêng với dòng xe chiến lược với tỷ lệ nội địa hóa trên 60% thì thuế xa xỉ chỉ là 10%. Riêng với dòng xe giá rẻ thì được miễn hoàn toàn thuế xa xỉ. Chính sách này ổn định trong suốt 5 năm qua để các DN có kế hoạc đầu tư dài hạn.

Kết quả là đến nay, 1 loạt các mẫu xe giá rẻ đã ra đời đáp ứng nhu cầu của người dân. Tầng lớp bình dân ở Indonesia giờ có thể dễ dàng mua 1 chiếc xe giá dưới 10.000 USD với động cơ 1.0L như Mitsubishi Mirage, Daihatsu Ayla, Honda Brio Satya...

Ô tô ở nhiều nước trong khu vực là mơ ước của Việt Nam

Ở Indonesia cũng phải đối mặt với tình trạng tắc đường mỗi ngày. Nhiều người sử dụng ô tô làm phương tiện đi lại thì chuyện tắc đường là khó tránh khỏi. Nhưng Chính phủ Indonesia cho rằng, nhiều xe thì bắt buộc các cơ quan chức năng phải có tầm nhìn và lo làm hạ tầng để giao thông thuận tiện hơn.

Indonesia cho biết, với cách này, họ được nhiều cái lợi, không chỉ người dân được tiếp cận xe hơi, mà còn phát triển được công nghiệp ôtô; không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu.

Công nghiệp ôtô phát triển tạo ra nhiều việc làm, tạo ra nguồn thu lớn cho ngân sách. Khi có tiền, sẽ quay lại đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng giao thông. Ngoài ra, khi công nghiệp ôtô phát triển kéo nhiều ngành như: điện tử, thép, vật liệu mới, luyện kim, chế tạo động cơ... đi lên, tạo nền tảng hướng tới quốc gia có ngành công nghiệp hiện đại.

Tại Thái Lan cũng rất thành công với dự án "eco-car". Từ  2009, Chính phủ quy định, xe "eco-car" có mức tiêu hao nhiên liệu tối đa 5 lít/100 km, đạt tiêu chuẩn khí thải Euro4 và được ưu đãi giảm thuế với mức cao. 

Chính phủ Thái còn có chính sách hỗ trợ khách hàng mua xe lần đầu khi giảm 3.200 USD thuế tiêu thụ đặc biệt. Nhờ đó, qua thời gian, nhiều mẫu xe giá rẻ đã ra đời đáp ứng nhu cầu của người dân.

Tại Thái Lan, thủ đô Bangkok cũng tắc thường xuyên do ôtô nhưng chính phủ không có chủ trương hạn chế ô tô. Thái Lan sẽ giải quyết tắc đường bằng cách sử dụng nguồn thu từ ôtô làm tàu điện trên cao, tàu điện ngầm... để khuyến khích người dân dùng phương tiện công cộng. Ngoài ra, chính phủ kêu gọi DN làm đường trên cao và được thu phí để hoàn vốn. 

Đến nay tại Thái Lan có nhiều xe giá rẻ và phần lớn các gia đình Thái Lan từ nông thôn đến thành thị đều có ôtô đi lại và nhiều gia đình có 2 xe.

Bao giờ đến Việt Nam?

Tại Việt Nam, từ 1995, ngành công nghiệp ô tô đã manh nha phát triển. Hơn 10 DN ô tô có tên tuổi trên thế giới đã tìm đến, liên doanh, đầu tư lắp ráp xe. Công nghiệp ô tô Việt Nam đã thất bại khi chủ yếu vẫn dừng ở lắp ráp, tỷ lệ nội địa hóa rất thấp với các linh kiện giản đơn. 

Mới đây, tổng kết lại 10 năm phát triển ôtô thì các tiêu chí quan trọng của một nền ôtô từ sản lượng xe đến tỷ lệ nội địa hóa... đều không đạt. Các mục tiêu quan trọng thể hiện sự phát triển của ngành công nghiệp ôtô như: sản xuất động cơ, hộp số, cụm truyền động... đều thất bại. 

Đặc biệt, công nghiệp hỗ trợ rất kém phát triển. Đến nay, cả nước có khoảng 210 DN tham gia sản xuất các loại linh kiện, phụ tùng ôtô, nhưng chủ yếu đều là các linh kiện giản đơn, giá trị thấp. Tổng số DN hỗ trợ tại Việt Nam cũng chỉ bằng 1/5 so với Indonesia, 1/8 so với Thái Lan. Trong khi Thái Lan đạt sản lượng 1,5 triệu xe/năm, Indonesia đạt 1,2 triệu xe /năm, thì 2013 Việt Nam đạt 110.000 xe/năm. 

Trong khi đó, các chính sách đang bóp nghẹt thị trường, tiêu dùng bằng thuế phí chồng chất. Đây cũng là nguyên nhân chính đẩy giá xe lên cao. Một chiếc ô tô tại Việt Nam đang phải chịu 5 loại thuế và 9 loại phí. Việc thuế chồng lên thuế, phí chồng phí làm cho đại đa số người dân Việt Nam không dám nghĩ tới mua xe.

Về phía các DN, thông thường công suất khai thác thấp thì bị thua lỗ và theo qui luật thị trường, ai hoạt động không hiệu quả sẽ phải rút lui. Thế nhưng chẳng DN nào rút lui và các liên doanh vẫn có lãi, điều này chứng tỏ giá bán ôtô đã bị đẩy lên rất nhiều so với giá trị thực của xe.

Ở Việt Nam, ùn tắc giao thông là lý do hạn chế ô tô. Bộ Giao thông Vận tải từng có sáng kiến thu phí ô tô từ 30-50 triệu đồng/xe/năm và năm sau cao hơn 20% so với năm trước khiến nhiều người tiêu dùng bị một phen phát hoảng.

Đến nay, giá xe ở Việt Nam vẫn thuộc hàng đắt nhất thế giới. Tại Thái Lan, chiếc Toyota Yarris phiên bản E có giá bán 17.700 USD, khi nhập khẩu về Việt Nam giá lên tới 661 triệu đồng.  Suzuki Swift lắp ráp tại Việt Nam có giá bán 550 triệu đòng, nhưng tại Thái Lan giá bán ra chỉ có 15.000 USD.

Thu nhập bình quân đầu người Thái Lan năm 2013 đạt trên 10.000 USD, còn Indonesia cũng đạt trên 5.000 USD, trong khi Việt Nam chưa nổi 2.000 USD/người/năm. Vậy nhưng giá xe ôtô tại Việt Nam cao hơn 1,5 lần so với 2 nước này. 

Qua đó mới thấy, dân Thái Lan, Indonesia có cơ hội tiếp cận với ô tô dễ dàng biết chừng nào, còn với người Việt Nam vẫn chỉ là giấc mơ xa vời.

Trần Thủy/ VietNamNet

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 88,500 ▼500K 90,300 ▼200K
AVPL/SJC HCM 88,500 ▼500K 90,300 ▼200K
AVPL/SJC ĐN 88,500 ▼500K 90,300 ▼200K
Nguyên liệu 9999 - HN 75,500 ▼200K 76,300 ▼250K
Nguyên liệu 999 - HN 75,400 ▼200K 76,200 ▼250K
AVPL/SJC Cần Thơ 88,500 ▼500K 90,300 ▼200K
Cập nhật: 21/05/2024 12:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 75.500 ▼200K 77.400 ▼200K
TPHCM - SJC 88.400 ▼300K 90.400 ▼300K
Hà Nội - PNJ 75.500 ▼200K 77.400 ▼200K
Hà Nội - SJC 88.400 ▼400K 90.400 ▼400K
Đà Nẵng - PNJ 75.500 ▼200K 77.400 ▼200K
Đà Nẵng - SJC 88.400 ▼300K 90.400 ▼300K
Miền Tây - PNJ 75.500 ▼200K 77.400 ▼200K
Miền Tây - SJC 88.800 ▼300K 90.500 ▼300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 75.500 ▼200K 77.400 ▼200K
Giá vàng nữ trang - SJC 88.400 ▼300K 90.400 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 75.500 ▼200K
Giá vàng nữ trang - SJC 88.400 ▼300K 90.400 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 75.500 ▼200K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 75.300 ▼300K 76.100 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.830 ▼220K 57.230 ▼220K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 43.270 ▼170K 44.670 ▼170K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.410 ▼120K 31.810 ▼120K
Cập nhật: 21/05/2024 12:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,535 ▼10K 7,720 ▼10K
Trang sức 99.9 7,525 ▼10K 7,710 ▼10K
NL 99.99 7,540 ▼10K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,535 ▼10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,600 ▼10K 7,750 ▼10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,600 ▼10K 7,750 ▼10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,600 ▼10K 7,750 ▼10K
Miếng SJC Thái Bình 8,850 ▼40K 9,050 ▼40K
Miếng SJC Nghệ An 8,850 ▼40K 9,050 ▼40K
Miếng SJC Hà Nội 8,850 ▼40K 9,050 ▼40K
Cập nhật: 21/05/2024 12:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 88,500 ▼500K 90,500 ▼500K
SJC 5c 88,500 ▼500K 90,520 ▼500K
SJC 2c, 1C, 5 phân 88,500 ▼500K 90,530 ▼500K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 75,550 ▼200K 77,250 ▼200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 75,550 ▼200K 77,350 ▼200K
Nữ Trang 99.99% 75,450 ▼200K 76,450 ▼200K
Nữ Trang 99% 73,693 ▼198K 75,693 ▼198K
Nữ Trang 68% 49,641 ▼136K 52,141 ▼136K
Nữ Trang 41.7% 29,533 ▼83K 32,033 ▼83K
Cập nhật: 21/05/2024 12:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,545.27 16,712.39 17,243.75
CAD 18,203.17 18,387.04 18,971.64
CHF 27,241.79 27,516.95 28,391.83
CNY 3,445.54 3,480.35 3,591.54
DKK - 3,636.52 3,774.73
EUR 26,928.22 27,200.22 28,396.83
GBP 31,515.86 31,834.20 32,846.34
HKD 3,181.38 3,213.52 3,315.69
INR - 304.62 316.71
JPY 157.78 159.38 166.95
KRW 16.14 17.94 19.56
KWD - 82,722.43 86,005.63
MYR - 5,368.49 5,484.05
NOK - 2,329.84 2,428.08
RUB - 267.04 295.53
SAR - 6,767.26 7,035.84
SEK - 2,333.44 2,431.83
SGD 18,415.36 18,601.37 19,192.78
THB 621.57 690.64 716.89
USD 25,233.00 25,263.00 25,463.00
Cập nhật: 21/05/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,711 16,811 17,261
CAD 18,410 18,510 19,060
CHF 27,475 27,580 28,380
CNY - 3,475 3,585
DKK - 3,651 3,781
EUR #27,147 27,182 28,442
GBP 31,926 31,976 32,936
HKD 3,186 3,201 3,336
JPY 159.23 159.23 167.18
KRW 16.86 17.66 20.46
LAK - 0.9 1.26
NOK - 2,336 2,416
NZD 15,283 15,333 15,850
SEK - 2,329 2,439
SGD 18,423 18,523 19,253
THB 650.27 694.61 718.27
USD #25,220 25,263 25,463
Cập nhật: 21/05/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,260.00 25,263.00 25,463.00
EUR 27,094.00 27,203.00 28,403.00
GBP 31,661.00 31,852.00 32,831.00
HKD 3,198.00 3,211.00 3,316.00
CHF 27,401.00 27,511.00 28,364.00
JPY 158.80 159.44 166.68
AUD 16,663.00 16,730.00 17,236.00
SGD 18,539.00 18,613.00 19,166.00
THB 685.00 688.00 716.00
CAD 18,328.00 18,402.00 18,945.00
NZD 15,287.00 15,794.00
KRW 17.86 19.53
Cập nhật: 21/05/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25248 25248 25463
AUD 16741 16791 17294
CAD 18461 18511 18967
CHF 27684 27734 28296
CNY 0 3482.7 0
CZK 0 1030 0
DKK 0 3640 0
EUR 27380 27430 28140
GBP 32089 32139 32799
HKD 0 3250 0
JPY 160.68 161.18 165.69
KHR 0 5.6733 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.0389 0
MYR 0 5520 0
NOK 0 2305 0
NZD 0 15315 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2320 0
SGD 18680 18730 19287
THB 0 661.8 0
TWD 0 780 0
XAU 8820000 8820000 9030000
XBJ 7000000 7000000 7550000
Cập nhật: 21/05/2024 12:00