Những nguy cơ đe dọa kinh tế Trung Quốc

10:10 | 18/07/2013

858 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Trung Quốc vừa công bố những số liệu thương mại bất ngờ xấu đi trong 6 tháng đầu năm 2013. Cùng với tín hiệu về một cuộc khủng hoảng tín dụng lộ ra khi tăng trưởng kinh tế giảm, các chuyên gia cho rằng, nền kinh tế Trung Quốc đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ sau nhiều năm tăng trưởng thần kỳ.

Các số liệu của Chính phủ Bắc Kinh thông báo hôm 10/7 cho thấy xuất khẩu của Trung Quốc trong 6 tháng đầu năm 2013 đã giảm 3,1% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều so với dự báo của thị trường là tăng trưởng khoảng 4%. Nhập khẩu cũng giảm 0,7% và thặng dư mậu dịch giảm xuống chỉ còn hơn 27 tỉ USD.

Phát ngôn viên Tổng cục Hải quan Trung Quốc Trịnh Nhạc Sinh cho báo chí biết rằng ngoại thương của Trung Quốc đang đối mặt với “những thách thức nghiêm trọng” và cảnh báo rằng triển vọng xuất khẩu của quý III “khá u ám”. Ông Trịnh cho rằng điều này xuất phát từ sự sút giảm của nhu cầu ở nước ngoài đối với hàng hóa của Trung Quốc, giá thành lao động gia tăng và tỉ giá hối đoái của đồng nhân dân tệ ở mức cao.

Khoản nợ của các doanh nghiệp địa phương ở Trung Quốc chiếm 36% GDP và có thể nhanh chóng tăng tới 60% GDP

Trung Quốc từng dự báo kinh tế của họ sẽ tăng trưởng chậm lại trong lúc họ tìm cách chuyển đổi từ sự lệ thuộc vào xuất khẩu sang gia tăng mức tiêu thụ nội địa. Tuy nhiên, chuyên gia Robert Blohm thuộc Công ty Tư vấn Keen Resources Asia ở HongKong nói rằng mức nhập khẩu yếu kém cho thấy Bắc Kinh gặp khó khăn trong việc đẩy mạnh mức cầu trong nước. Ông Blohm nói thêm rằng, bằng chứng về sự tăng trưởng chậm lại của kinh tế Trung Quốc còn có thể thấy được qua nhiều dự án xây dựng dở dang trên khắp nước. Các nhà phân tích nói rằng việc tái cơ cấu kinh tế Trung Quốc hướng tới tiêu thụ nội địa là một quá trình tiệm tiến và dài hạn. Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng những số liệu thương mại mới nhất có thể làm cho Chính phủ Trung Quốc tạm thời trì hoãn quá trình này để kích thích tăng trưởng và ngăn ngừa bất ổn xã hội.

Những dấu hiệu dễ bị tổn thương đang dần tích tụ trong nền kinh tế Trung Quốc. Đó thực sự là những trái bom nổ chậm đối với không chỉ Bắc Kinh mà cả nền kinh tế thế giới. Trong 10 năm qua, Trung Quốc đóng góp 1/4 cho tăng trưởng kinh tế thế giới. Kinh tế Trung Quốc tăng trưởng với tỷ lệ 7,8% hồi năm ngoái, mức thấp nhất trong vòng 13 năm. Bắc Kinh đề ra chỉ tiêu tăng trưởng 7,5% cho năm 2013. Nếu nền kinh tế Trung Quốc “hắt hơi”, toàn thế giới sẽ “sổ mũi”. Theo các nhà phân tích, nền kinh tế Trung Quốc đang đối mặt với một số nguy cơ như sau.

Thứ nhất là vấn đề tín dụng đen. Joe Zhang, cựu chuyên gia Ngân hàng UBS, đánh giá một “trái bom tài chính” có nguy cơ phát nổ tại Trung Quốc. Trong vòng 4 năm qua, một hệ thống tài chính dày đặc, dần thoát khỏi mọi quy tắc và kiểm soát, bị các nhóm xã hội đen thâm nhập, đã biến tướng trên mọi cấp độ. Ngày nay hệ thống tài chính đang gây áp lực lên 1/2 GDP của đất nước. Ban đầu, sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008, sự thiếu suy xét của Bắc Kinh đã đòi hỏi các ngân hàng nhà nước phải cung cấp một lượng tiền lớn cho các đại tập đoàn công. Trong 5 năm, tín dụng ngân hàng đã tăng gấp 5 lần. Trừ một phần các doanh nghiệp tư nhân, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, không nhận được sự hào phóng của các ngân hàng nhà nước, các doanh nghiệp còn lại đã quay hang hệ thống “shadow banking”.

Jean-Luc Buchalet, người sáng lập Trung tâm nghiên cứu kinh tế và tài chính PrimeView, giải thích: “Ngày nay, hệ thống tín dụng đen chiếm gần 45% nguồn cung tài chính cho các doanh nghiệp tư nhân”. Vậy là những doanh nghiệp trong bóng tối này lại có khả năng tái đầu tư vào các ngân hàng truyền thống và nhất là cấp vốn cho các đối tác tìm kiếm lợi nhuận cao hơn. Đó là một thất bại khác của hệ thống tài chính Trung Quốc. Ban đầu lãi suất cho vay chỉ là 3%/năm tại một đất nước có tỷ lệ lạm phát phi mã hơn 5%. Jean-Luc Buchalet nhấn mạnh: “Khi ngân hàng yêu cầu tỷ lệ lãi suất là 15%/năm, nhiều đối tác đã phải từ bỏ các dự án mà họ đã đầu tư”.   

Thứ hai là nguy cơ vượt quá khả năng sản xuất. Bắc Kinh tham vọng sản xuất tàu cao tốc của nước này sánh ngang các cường quốc khác. Từ năm 2008, Trung Quốc đã xây dựng khoảng 30.000km đường sắt và 16.000km bổ sung từ nay đến năm 2015. Ngoài ra còn phải kể đến 34.000km đường cao tốc dự kiến hoàn thành vào năm 2016 và 60 sân bay đến cuối thập niên này. Để tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng trên, Bắc Kinh xây dựng các tuyến đường hoàn toàn dựa vào nguồn tín dụng trong khi chúng vẫn còn bỏ hoang. Tỷ lệ đầu tư của đất nước cho các dự án trên (so với chi phí thiết bị và GDP) ngày nay đạt 48%. Michael Pettis, giáo sư tại Guanghua School of Management, cảnh báo: “Trung Quốc đang ghi nhận 10 điểm trên Nhật Bản ngay trước khi đổ vỡ nạn bong bóng đầu tư”. Trừ lĩnh vực công chính, Trung Quốc đang đầu tư quá mức. Việc vượt quá khả năng sản xuất đang tác động tới hầu hết các ngành công nghiệp nền tảng.

Trong lĩnh vực sản xuất xi măng, sản lượng của Trung Quốc trong 1 năm bằng tổng sản lượng của các nước Mỹ, Ấn Độ và Nhật cộng lại. Kết quả là các nhà máy dần chậm lại, cuộc chiến giá cả trở nên cạnh tranh, mọi giới hạn đều bị vượt qua. Trong lĩnh vực sản xuất aluminium, năm 2012 một nửa các tập đoàn của Trung Quốc làm ăn thua lỗ. Zhang Ping, ông chủ của Ủy ban phát triển quốc gia, đã cảnh báo: “Sau sự sụp đổ của Suntech, tập đoàn đứng đầu thế giới về pin mặt trời, cuộc thanh loại công nghiệp mới chỉ bắt đầu”.   

Tiếp đến là vấn đề nợ của các doanh nghiệp địa phương. Nợ của các doanh nghiệp địa phương hiện lên tới 2.200 tỉ USD, tức 36% GDP của Trung Quốc. Tại hội nghị kinh tế ở Hải Nam tháng 4/2013, tỷ phú Mỹ George Soros đã cảnh báo Trung Quốc một cuộc khủng hoảng nợ so với điều đã xảy ra với Hy Lạp. Đó là chưa kể các khoản nợ gián tiếp của các doanh nghiệp địa phương vay của các ngân hàng lớn của nhà nước để thực hiện các kế hoạch khác nhau nhằm phục hồi sản xuất từ năm 2008. Khoản nợ này ngày nay chiếm tới 36% GDP quốc gia và có thể nhanh chóng tăng tới 60% GDP. Stephen Swartz, chuyên gia kinh tế của BBVA tại Hongkong cảnh báo: “Thực tế 1/3 các dự án được tài trợ bằng các khoản tín dụng cho các địa phương đều không sinh lợi”. Không có nguồn thu thuế bổ sung và nhất là trong bối cảnh tăng trưởng chậm lại, một số thành phố sẽ không có khả năng trả nợ ngân hàng. Vậy là các ngân hàng Trung Quốc đang cố gắng trở thành đứng đầu thế giới về doanh thu lại có nguy cơ tích lũy vốn thấp.

Các nhà quan sát cho rằng Trung Quốc tưởng là tìm ra phép thần kỳ với chiến lược tăng trưởng bằng đầu tư, tín dụng và xuất khẩu, nhưng chỉ có lượng mà thiếu chất. Ðầu tư ào ạt gây lãng phí, tham ô. Khối tín dụng dồi dào thổi lên bong bóng và trở thành một núi nợ sẽ sụp. Trong khi ấy xuất khẩu giảm sút vì các thị trường Âu - Mỹ - Nhật đều co cụm. Lãnh đạo Bắc Kinh ý thức được sự nguy hiểm đó nên cố chuyển qua chiến lược khác. Nhưng khi cỗ xe quẹo cua thì cũng là lúc dễ lật.

H. Ninh (tổng hợp)

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 83,500 85,700
AVPL/SJC HCM 83,500 85,700
AVPL/SJC ĐN 83,500 85,700
Nguyên liệu 9999 - HN 73,150 74,050
Nguyên liệu 999 - HN 73,050 73,950
AVPL/SJC Cần Thơ 83,500 85,700
Cập nhật: 06/05/2024 02:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.100 74.950
TPHCM - SJC 83.500 85.900
Hà Nội - PNJ 73.100 74.950
Hà Nội - SJC 83.500 85.900
Đà Nẵng - PNJ 73.100 74.950
Đà Nẵng - SJC 83.500 85.900
Miền Tây - PNJ 73.100 74.950
Miền Tây - SJC 83.500 85.900
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.100 74.950
Giá vàng nữ trang - SJC 83.500 85.900
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.100
Giá vàng nữ trang - SJC 83.500 85.900
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.100
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.000 73.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.100 55.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.920 43.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.450 30.850
Cập nhật: 06/05/2024 02:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,285 7,490
Trang sức 99.9 7,275 7,480
NL 99.99 7,280
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,260
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,350 7,520
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,350 7,520
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,350 7,520
Miếng SJC Thái Bình 8,360 8,580
Miếng SJC Nghệ An 8,360 8,580
Miếng SJC Hà Nội 8,360 8,580
Cập nhật: 06/05/2024 02:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,500 85,900
SJC 5c 83,500 85,920
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,500 85,930
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 74,800
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 74,900
Nữ Trang 99.99% 73,000 74,000
Nữ Trang 99% 71,267 73,267
Nữ Trang 68% 47,975 50,475
Nữ Trang 41.7% 28,511 31,011
Cập nhật: 06/05/2024 02:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,354.34 16,519.54 17,049.50
CAD 18,090.38 18,273.11 18,859.33
CHF 27,341.37 27,617.55 28,503.54
CNY 3,436.06 3,470.77 3,582.65
DKK - 3,598.26 3,736.05
EUR 26,625.30 26,894.25 28,085.20
GBP 31,045.53 31,359.12 32,365.15
HKD 3,169.44 3,201.45 3,304.16
INR - 303.80 315.94
JPY 161.02 162.65 170.43
KRW 16.21 18.02 19.65
KWD - 82,506.00 85,804.46
MYR - 5,303.65 5,419.33
NOK - 2,286.73 2,383.82
RUB - 265.97 294.43
SAR - 6,753.59 7,023.59
SEK - 2,299.45 2,397.08
SGD 18,345.10 18,530.40 19,124.88
THB 611.06 678.96 704.95
USD 25,117.00 25,147.00 25,457.00
Cập nhật: 06/05/2024 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,456 16,476 17,076
CAD 18,235 18,245 18,945
CHF 27,506 27,526 28,476
CNY - 3,435 3,575
DKK - 3,572 3,742
EUR #26,449 26,659 27,949
GBP 31,283 31,293 32,463
HKD 3,119 3,129 3,324
JPY 161.69 161.84 171.39
KRW 16.52 16.72 20.52
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,252 2,372
NZD 14,995 15,005 15,585
SEK - 2,270 2,405
SGD 18,246 18,256 19,056
THB 637.99 677.99 705.99
USD #25,100 25,100 25,457
Cập nhật: 06/05/2024 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,157.00 25,457.00
EUR 26,777.00 26,885.00 28,090.00
GBP 31,177.00 31,365.00 32,350.00
HKD 3,185.00 3,198.00 3,304.00
CHF 27,495.00 27,605.00 28,476.00
JPY 161.96 162.61 170.17
AUD 16,468.00 16,534.00 17,043.00
SGD 18,463.00 18,537.00 19,095.00
THB 674.00 677.00 705.00
CAD 18,207.00 18,280.00 18,826.00
NZD 0.00 15,007.00 15,516.00
KRW 0.00 17.91 19.60
Cập nhật: 06/05/2024 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25170 25170 25457
AUD 16588 16638 17148
CAD 18360 18410 18865
CHF 27797 27847 28409
CNY 0 3473 0
CZK 0 1030 0
DKK 0 3640 0
EUR 27081 27131 27841
GBP 31618 31668 32331
HKD 0 3250 0
JPY 164.03 164.53 169.07
KHR 0 5.6733 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.0371 0
MYR 0 5520 0
NOK 0 2305 0
NZD 0 15068 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2320 0
SGD 18623 18673 19227
THB 0 651.5 0
TWD 0 780 0
XAU 8350000 8350000 8550000
XBJ 6500000 6500000 7280000
Cập nhật: 06/05/2024 02:00