Kinh tế Trung Quốc: Một sự “bình thường mới”!

07:00 | 02/02/2015

2,488 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Tăng trưởng 2014 còn 7,4% ở Trung Quốc - thấp kỷ lục kể từ năm 1990. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình gọi nó là "sự bình thường mới" nhưng các cuộc đình công đang tăng, tiền lương không được trả và các doanh nghiệp vật lộn để tồn tại khi nền kinh tế khổng lồ đang điều chỉnh để thích ứng với tốc độ phát triển khiêm tốn sau hơn một thập niên bùng nổ.

Năng lượng Mới số 395

Không chỉ kích cỡ miếng bánh bị giảm…

Con số chính thức được công bố hạ tuần tháng 1/2015 cho thấy, GDP Trung Quốc đạt 7,4% trong năm 2014 - theo The Observer 25/1/2015. Đó là sự tụt giảm đáng kể so với 7,7% năm 2013 và là tỷ lệ yếu nhất kể từ năm 1990, khi Trung Quốc phải vật lộn với biện pháp trừng phạt quốc tế sau vụ thảm sát Thiên An Môn. Dù Bắc Kinh trấn an rằng sự giảm nhiệt kinh tế là “điều tốt”, khi nền kinh tế chuyển từ xuất khẩu sang nhu cầu nội địa để thúc đẩy tăng trưởng bền vững, người dân khắp Trung Quốc vẫn đang cảm thấy sức nóng. Giá than và đồng đang xuống do thiếu nhu cầu; đình công và biểu tình đang ngày càng phổ biến. Chính dấu hiệu suy giảm kinh tế Trung Quốc đã trở thành yếu tố chủ yếu đằng sau sự chìm giá dầu thế giới.

"Nhìn ở góc độ công nghiệp, nơi bị ảnh hưởng mạnh nhất là khoáng sản và công nghiệp nặng. Các ngành công nghiệp quặng sắt, thép, lọc dầu…, tất cả đều đang bị bóp nghẹt" - nhận xét của chuyên gia kinh tế cao cấp Andrew Polk. Giới hoạch định chính sách Trung Quốc đang đối mặt một thử thách khó khăn trong việc khống chế đà tụt giảm kinh tế với việc duy trì hệ thống tài chính sao cho nó không sụp đổ. Tốc độ tăng trưởng dự kiến sẽ chậm hơn trong 3 năm tới, khi Bắc Kinh phải ra tay kiểm soát thị trường bất động sản đang trượt dốc đồng thời kiềm chế tình trạng vay quá mức của chính quyền địa phương.

Tăng trưởng GDP của Trung Quốc trong năm 2014 ở mức 7,4%, thấp nhất trong vòng 24 năm trở lại đây

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo tỷ lệ tăng trưởng năm 2015 là 6,8%. "Cuộc khủng hoảng tài chính là đòn sinh tử đối với mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, vì hai lý do" - Diana Choyleva, chuyên gia về Trung Quốc tại Hãng tư vấn Lombard Street Research cho biết. "Một là sự sụt giảm trong nhu cầu toàn cầu và hai là sự điều chỉnh của đồng nhân dân tệ so với đồng USD. Không chỉ kích cỡ miếng bánh bị giảm mà khả năng cắn vào phần to hơn cũng bị ảnh hưởng". Phân tích từ nhiều dữ liệu của Diana Choyleva cho thấy, tỷ lệ tăng trưởng Trung Quốc thật ra kém hơn con số chính thức được công bố. Ngay cả tầng lớp trung lưu, nhóm được mở rộng với tốc độ chóng mặt và trở nên quen với lối sống tiêu chuẩn cao những năm gần đây, cũng bắt đầu cảm thấy khó khăn.

Tập Cận Bình kêu gọi công chúng Trung Quốc chấp nhận "sự bình thường mới" lần đầu tiên khi kinh lý Hà Nam vào tháng 5/2014. Kể từ đó, phương tiện truyền thông nhà nước Trung Quốc đã sử dụng “thuật ngữ” này như là một sự đảm bảo rằng chính phủ vẫn chắc tay trong kiểm soát. Dưới sự phát triển của “bình thường mới”, giới chức chính phủ nói, kinh tế Trung Quốc sẽ công bằng và bền vững hơn và cuối cùng đất nước có thể bắt đầu tạo ra sự phát triển ổn định hướng tới việc tái khôi phục môi trường sau nhiều thập niên ô nhiễm. "Thị trường, vốn điên cuồng về tốc độ và con số, dường như đã bỏ lỡ thực tế rằng nền kinh tế Trung Quốc sẽ lành mạnh hơn dưới sự phát triển “bình thường mới”, hàm chứa các xu hướng tích cực của tăng trưởng ổn định, cơ cấu tối ưu hóa, tăng cường chất lượng và cải thiện phúc lợi xã hội" - Tân Hoa Xã tiêm liều thuốc an thần ngày 21/1/2015. Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới Davos vào 22/1/2015, Thủ tướng Lý Khắc Cường cũng khẳng định: "Trung Quốc sẽ tránh được hạ cánh khó khăn, tiếp tục cải cách, chuyển dịch cơ cấu để đảm bảo một tương lai phát triển bền vững lâu dài".

Tuy nhiên, Trần Tú San (Chen Xiushan), Giáo sư kinh tế Đại học Nhân Dân, cho rằng điều "bình thường mới" này có nghĩa là sẽ một cái gì đó rất khác, chẳng hạn, giữa một công nhân dầu ở tỉnh xa Hắc Long Giang với một doanh nghiệp công nghệ cao tại Bắc Kinh. Suy thoái có thể tàn phá những người làm việc trong các ngành công nghiệp cơ bản như thép và xi măng, khi thị trường bất động sản tiếp tục chìm. Trong khi đó, lĩnh vực khác có thể được hưởng lợi, khi Bắc Kinh bơm ngân sách vào các ngành y tế, công nghệ và văn hóa. Một số vùng cũng có thể có khả năng điều chỉnh tốt hơn theo mô hình tăng trưởng mới. Các tỉnh ven biển Đông Nam Trung Quốc, khu vực đa dạng về kinh tế, có thể lướt qua cơn bão suy thoái mà không bị tổn thương, theo Trần Tú San, trong khi các tỉnh sâu trong nội địa và các tỉnh công nghiệp gần như chắc chắn phải vật vã. Khu vực Đông Bắc Trung Quốc sẽ "không có nhiều cơ hội cho quá trình chuyển đổi kinh tế", bởi họ phụ thuộc nặng vào hệ thống doanh nghiệp nhà nước trong khi cư dân địa phương ngày càng bỏ xứ di cư về phía nam để tìm việc.

Karen Ward, nhà kinh tế toàn cầu cao cấp tại HSBC cho biết, hiện thời, chính quyền địa phương nhiều nơi vẫn tiếp tục củng cố tăng trưởng kinh tế bằng các dự án xây dựng. Giới chuyên gia tin rằng, việc các chính quyền địa phương phung phí vào các dự án không cần thiết là điều nguy hiểm. Nó gợi nhớ đến "những cây cầu không dẫn tới đâu" khi người ta mô tả bong bóng đầu tư của Nhật vào những năm 80 của thế kỷ trước. Giới hoạch định chính sách Trung Quốc vẫn nhiệt tình khẳng định họ có thể tránh được sự sụp đổ. Lý thủ tướng nói tại Hội nghị Davos: "Nếu tôi so sánh nền kinh tế Trung Quốc với một đoàn tàu đang chạy, những gì tôi muốn bạn biết là, đoàn tàu sẽ không bị giảm tốc hay lực tiến. Nó sẽ được kéo bằng cỗ máy mạnh hơn và chạy vững chắc hơn, mang theo những cơ hội mới và động lực mới cho tăng trưởng".

Tăng trưởng “ma”

Tuy nhiên, muốn biết “đoàn tàu” kinh tế chạy vững như thế nào, thử đến thăm những nhà máy “ma” của Trung Quốc - như được thuật trên Financial Times 28/12/2014. Công viên công nghiệp thép Văn Hỉ (Wenxi) bây giờ trông hệt một “nghĩa địa” hoang tàn. Tại ngôi làng gần đó, những người ở độ tuổi lao động đã biến mất, chỉ để lại người già và trẻ con. Toàn bộ khu vực dựa vào các nhà máy cán thép nhưng giờ thì công nhân phải bỏ làng đi tìm việc trên khắp Trung Quốc. Công ty Highsee đã ngừng trả lương cho 10.000 công nhân từ giữa năm 2014. Quan chức địa phương ước tính Highsee nuôi gián tiếp khoảng một phần tư dân số quận Văn Hỉ thuộc tỉnh Sơn Tây (tổng cộng chừng 400.000 người). Highsee là nhà máy thép tư nhân lớn nhất Sơn Tây, chiếm 60% doanh thu thuế Văn Hỉ. Do đó, chính quyền địa phương phải rất miễn cưỡng “cho phép” công ty phá sản, mặc dù công ty này gặp khó khăn tài chính nghiêm trọng trong nhiều năm.

Công nhân làm việc tại công trường xây dựng một trung tâm thương mại mới ở Bắc Kinh

"Đến năm 2011, Highsee đã như một con rết chết chưa đông lạnh” - một quan chức giấu tên nói - "Hơn một nửa nhà máy đóng cửa nhưng nó vẫn bị buộc phải sản xuất thép dù vốn cạn khô và ngập chìm trong nợ". Trên khắp Trung Quốc, những trường hợp tương tự đầy rẫy, với hàng ngàn công ty công nghiệp nặng bị nhiễm cơn dịch dư thừa mãn tính. Tuy nhiên, chính quyền địa phương luôn ép các công ty phải vật lộn duy trì trước khi thật sự giương cờ trắng đầu hàng. Chỉ vào tháng 11/2014, sau 4 năm bắt đầu chết lâm sàng, Highsee mới được phép lập giấy khai tử. Cũng trong tháng 11/2014, báo chí Trung Quốc cho biết có ít nhất 9 nhà máy thép lớn đã bị “treo bảng” trong tình trạng nửa sống nửa chết nhưng vẫn bị cấm tuyên bố chính thức phá sản!

Chính quyền địa phương không muốn họ phá sản, bởi ngay sau khi công ty phá sản, tỷ lệ thất nghiệp địa phương sẽ tăng và doanh thu thuế biến mất. Bằng cách ngăn chặn phá sản, giới chức có thể duy trì ảo tưởng sự thịnh vượng địa phương, sự “tăng trưởng kinh tế” và “ổn định thuế”! Lấy trường hợp thép, sản xuất thép Trung Quốc tăng gấp 3 lần từ năm 2006 đến năm 2013; chiếm khoảng 1/3 sản lượng thép thế giới vào năm 2006; và 50% vào năm 2012. Sản xuất dư thừa như thế, cộng với nhu cầu nội địa chậm, khiến giá quặng sắt, thành phần quan trọng để làm thép, giảm 46% từ tháng 7/2011 đến tháng 7/2014, theo Ngân hàng Thế giới.

Có thể thấy vô số những bóng ma tương tự ngay tại Bắc Kinh. Theo công ty bất động sản Colliers International, các văn phòng tại khu vực trung tâm thương mại Bắc Kinh hiện bỏ trống đến 38%, cao hơn 12 điểm phần trăm so với tỷ lệ tại thành phố San Bernardino (California), nơi Hãng tư vấn REIS từng đánh giá là thị trường văn phòng hoạt động èo uột nhất nước Mỹ. Cách không xa quảng trường Thiên An Môn, cụm 5 tháp của Dân Sanh kim dung trung tâm (Trung tâm Tài chính Minsheng) gần như bỏ trống hơn 1 năm kể từ khi nó mở cửa mời đăng ký thuê. Cách đó không xa, khi tản bộ xuống Đại lộ Tài Chính, người ta có thể đi ngang tòa nhà số 19 (17 tầng) bỏ không hoàn toàn; tương tự cao ốc 12 và 16 (hai tháp 18 tầng của China Life Plaza); tương tự hai tòa nhà 18 tầng của cao ốc 20 và 22 thuộc Ngân hàng Viễn thông, nơi bụi phủ đầy cửa và một tiền sảnh chẳng biết dùng làm gì hơn là bãi giữ xe đạp!...

Có thể nói một phần sức mạnh kinh tế Trung Quốc hiện nay, được tính bằng đích nhắm tỷ lệ tăng trưởng GDP, đang nằm ở khu vực bất động sản. Nếu nhà nước không chi đậm cho xây dựng hạ tầng (bất động sản và hệ thống giao thông), GDP Trung Quốc chắc chắn không thể vọt lên đến mức “khủng” như đã thấy. Tuy nhiên, họ vẫn chưa đủ tỉnh và vẫn đặt mục tiêu phát triển bằng các dự án xây dựng. Đến một lúc, khi những bóng ma phủ đầy các thống kê, Trung Quốc sẽ là một nghĩa địa khổng lồ với những nấm mồ kinh tế của chính mình.

Mạnh Kim

 

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 84,800
AVPL/SJC HCM 82,600 84,800
AVPL/SJC ĐN 82,600 84,800
Nguyên liệu 9999 - HN 74,250 ▼250K 75,250 ▼200K
Nguyên liệu 999 - HN 74,150 ▼250K 75,150 ▼200K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 84,800
Cập nhật: 27/04/2024 18:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 75.600
TPHCM - SJC 83.000 85.200
Hà Nội - PNJ 73.800 75.600
Hà Nội - SJC 83.000 85.200
Đà Nẵng - PNJ 73.800 75.600
Đà Nẵng - SJC 83.000 85.200
Miền Tây - PNJ 73.800 75.600
Miền Tây - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 75.600
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 74.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 56.030
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 43.730
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 31.140
Cập nhật: 27/04/2024 18:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 7,590
Trang sức 99.9 7,375 7,580
NL 99.99 7,380
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 7,620
Miếng SJC Thái Bình 8,320 8,520
Miếng SJC Nghệ An 8,320 8,520
Miếng SJC Hà Nội 8,320 8,520
Cập nhật: 27/04/2024 18:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 85,200
SJC 5c 83,000 85,220
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 85,230
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 75,500
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 75,600
Nữ Trang 99.99% 73,700 74,700
Nữ Trang 99% 71,960 73,960
Nữ Trang 68% 48,451 50,951
Nữ Trang 41.7% 28,803 31,303
Cập nhật: 27/04/2024 18:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 27/04/2024 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,236 16,256 16,856
CAD 18,226 18,236 18,936
CHF 27,195 27,215 28,165
CNY - 3,427 3,567
DKK - 3,544 3,714
EUR #26,239 26,449 27,739
GBP 31,092 31,102 32,272
HKD 3,107 3,117 3,312
JPY 155.83 155.98 165.53
KRW 16.19 16.39 20.19
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,215 2,335
NZD 14,779 14,789 15,369
SEK - 2,245 2,380
SGD 18,035 18,045 18,845
THB 632.42 672.42 700.42
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 27/04/2024 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 27/04/2024 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 27/04/2024 18:00