Chứng khoán hiện tại khác gì giai đoạn khủng hoảng 2008

06:39 | 20/04/2020

202 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
So với năm 2008, nền tảng vĩ mô hiện ổn định hơn trước nhưng việc thị trường phụ thuộc nhiều vào dòng vốn ngoại lại là một biến số lớn.

Chứng khoán vừa ghi nhận phiên thứ năm tăng liên tiếp nhưng khi Covid-19 chưa có dấu hiệu hạ nhiệt cả trong nước và thế giới, kinh tế toàn cầu bên bờ vực suy thoái, giới đầu tư vẫn không khỏi ám ảnh về giai đoạn lao dốc năm 2008.

Chia sẻ với VnExpress, ông Trần Đức Anh - Giám đốc nghiên cứu vĩ mô và chiến lược thị trường, Công ty Chứng khoán KB Việt Nam cho rằng khó lặp lại khả năng thị trường hoảng loạn, VN-Index giảm liên tục, nhiều cổ phiếu mất thanh khoản như giai đoạn 2007-2008. Nguyên nhân cơ bản theo ông là nền tảng vĩ mô ổn định và thị trường chứng khoán hiện nay lành mạnh hơn sau 10 năm.

Trước giai đoạn khủng hoảng 2008, thị trường chứng khoán đã bộc lộ nhiều điểm yếu. Đà tăng trưởng nóng thể hiện qua chỉ số P/E toàn bộ doanh nghiệp niêm yết trên HoSE lên đến 40 lần. Đây là hệ quả của nhiều yếu tố cộng gộp: chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng thời gian dài dẫn đến lạm phát, các quy định sử dụng đòn bẩy lỏng lẻo, nguồn vốn đầu tư gián tiếp lớn để đón sóng gia nhập WTO...

Tỷ trọng giá trị giao dịch của nhà đầu tư tổ chức ở mức rất thấp, dưới 10% cho thấy thị trường thưa vắng dòng tiền dài hạn và chịu sự chi phối mạnh bởi hoạt động đầu cơ. Chỉ thị của Ngân hàng Nhà nước về việc khống chế cho vay ký quỹ chứng khoán sau đó càng khuếch đại lỗ hổng này.

Thiếu bền vững và dễ bị tác động bởi các yếu tố tâm lý trở thành hai mảng màu đậm nét nhất trong bức tranh thị trường. Điều này được cụ thể bằng việc VN-Index giảm mạnh khi đối mặt khủng hoảng và P/E thị trường cuối năm 2008 chạm đáy còn 8 lần.

Đồng quan điểm, ông Đinh Quang Hinh - Trưởng bộ phận chiến lược thị trường thuộc Khối phân tích, Công ty Chứng khoán VNDIRECT cho rằng sức mạnh của các định chế tài chính được củng cố đáng kể. Hơn nữa, kinh nghiệm ứng phó với khủng hoảng trước đây giúp cơ quan điều hành thực thi nhiều chính sách linh hoạt góp phần giúp thị trường trụ vững sau ba tháng sống chung với dịch bệnh.

Nếu đại dịch được kiểm soát trong quý II hoặc đầu quý III sẽ không xảy ra một cuộc khủng hoảng tương tự giai đoạn 2008. Thị trường cũng không mất nhiều thời gian "chữa lành" những tổn thương mà có thể quay trở lại xu hướng phục hồi ngay năm sau.

chung khoan hien tai khac gi giai doan khung hoang 2008
Nhà đầu tư giao dịch tại một sàn chứng khoán ở TP HCM. Ảnh: Như Quỳnh.

"Việc thị trường lao dốc mới đây là điều khó tránh khỏi, nhưng diễn biến giá cổ phiếu hiện nay phản ánh sát hơn sức khoẻ nội tại của doanh nghiệp và cơ hội hồi phục cũng sớm xuất hiện khi dịch bệnh qua đi", ông Đức Anh nói.

Tuy nhiên, thị trường hiện có nhiều điểm khác biệt với cách đây hơn chục năm và đây có thể là "biến số" dẫn tới những rủi ro khác.

So với trước, khối ngoại hiện dần khẳng định khả năng chi phối sau chính những công tác thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài của cả cơ quan điều hành lẫn doanh nghiệp. Tỷ trọng giá trị giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài trên toàn thị trường năm ngoái là 16%, gấp đôi so với thời kỳ khủng hoảng.

Tuy nhiên, khi được xếp hạng thị trường cận biên, chứng khoán Việt Nam đứng trước nguy cơ bị khối ngoại rút vốn nhiều hơn nếu rủi ro toàn cầu tăng lên. Thực tế trong quý đầu năm, khối ngoại rút ròng hơn 9.000 tỷ đồng và trực tiếp tạo nên tâm lý bi quan cho nhà đầu tư trong nước.

Nền kinh tế hiện tại có mối liên hệ chặt hơn với toàn cầu nhờ ký kết hàng loạt hiệp định thương mại tự do và tham gia sâu rộng chuỗi cung ứng. Điều này đồng nghĩa kinh tế Việt Nam, hay xét trong một mẫu nhỏ hơn là nhóm các doanh nghiệp niêm yết, sẽ bị tác động mạnh nếu suy thoái toàn cầu xảy ra.

Giới chuyên gia cho rằng xu hướng ngắn hạn sắp tới phụ thuộc bốn biến số quan trọng là thời gian cách ly xã hội, khả năng xuất hiện làn sóng lây nhiễm thứ hai, thời điểm có vaccine và hiệu quả các chính sách tài khoá, tiền tệ để kích thích tăng trưởng kinh tế hậu Covid-19.

Kịch bản tích cực là các biến số trên đều thuận lợi, VN-Index sẽ sớm quay trở lại mức 870-900 điểm vào cuối năm. Kịch bản cơ sở là kinh tế toàn cầu không đổ vỡ nhưng hồi phục chậm chạp do làn sóng lây nhiễm mới và vaccine ra thị trường vào cuối năm. VN-Index khi đó có thể quy trì quanh vùng giá hiện tại là 770-800 điểm.

Giả định nếu cuối năm nay, thế giới vẫn bất lực trong việc kiểm soát dịch, quá trình chế tạo vaccine không tiến triển trong hai năm tới thì thị trường sẽ đổ vỡ và rơi vào suy thoái trầm trọng như giai đoạn 2008. Với kịch bản này, VN-Index có thể rơi xuống vùng giá 500 điểm, tương đương P/E 8 lần và cũng là mức đáy.

Chuyên gia này đánh giá những động thái can thiệp trong các năm qua của nhà điều hành như thu hẹp biên độ giao dịch, khuyến khích doanh nghiệp mua cổ phiếu quỹ, miễn giảm các loại phí... phần nào giúp trấn an tâm lý nhà đầu tư, cải thiện thanh khoản, hỗ trợ giá...

Nhưng để giải quyết gốc rễ vấn đề vẫn cần các giải pháp mang tính dài hạn và phức tạp hơn khi điều kiện hạ tầng cho phép như nới quy định cho vay ký quỹ với những cổ phiếu chất lượng trên UPCoM, đẩy nhanh việc triển khai giao dịch T0, sớm triển khai NVDR (cổ phiếu, chứng chỉ không có quyền biểu quyết)... Chính sách tiền tệ và tài khoá cũng cần linh hoạt, vừa đảm bảo cân đối vĩ mô, vừa nới lỏng cần thiết để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn.

Theo VNE

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 87,700 89,800
AVPL/SJC HCM 87,700 89,800
AVPL/SJC ĐN 87,700 89,800
Nguyên liệu 9999 - HN 75,250 76,150
Nguyên liệu 999 - HN 75,150 76,050
AVPL/SJC Cần Thơ 87,700 89,800
Cập nhật: 19/05/2024 20:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 75.500 77.400
TPHCM - SJC 87.700 90.200
Hà Nội - PNJ 75.500 77.400
Hà Nội - SJC 87.700 90.200
Đà Nẵng - PNJ 75.500 77.400
Đà Nẵng - SJC 87.700 90.200
Miền Tây - PNJ 75.500 77.400
Miền Tây - SJC 88.000 90.400
Giá vàng nữ trang - PNJ 75.500 77.400
Giá vàng nữ trang - SJC 87.700 90.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 75.500
Giá vàng nữ trang - SJC 87.700 90.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 75.400 76.200
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.900 57.300
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 43.330 44.730
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.450 31.850
Cập nhật: 19/05/2024 20:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,515 7,700
Trang sức 99.9 7,505 7,690
NL 99.99 7,520
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,515
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,580 7,730
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,580 7,730
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,580 7,730
Miếng SJC Thái Bình 8,780 9,020
Miếng SJC Nghệ An 8,780 9,020
Miếng SJC Hà Nội 8,780 9,020
Cập nhật: 19/05/2024 20:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 87,700 90,400
SJC 5c 87,700 90,420
SJC 2c, 1C, 5 phân 87,700 90,430
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 75,600 77,200
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 75,600 77,300
Nữ Trang 99.99% 75,400 76,400
Nữ Trang 99% 73,644 75,644
Nữ Trang 68% 49,607 52,107
Nữ Trang 41.7% 29,512 32,012
Cập nhật: 19/05/2024 20:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,542.79 16,709.89 17,245.90
CAD 18,212.53 18,396.50 18,986.61
CHF 27,337.87 27,614.01 28,499.80
CNY 3,452.70 3,487.58 3,599.99
DKK - 3,638.16 3,777.47
EUR 26,943.10 27,215.25 28,420.33
GBP 31,406.75 31,723.99 32,741.62
HKD 3,179.47 3,211.58 3,314.60
INR - 304.36 316.53
JPY 158.48 160.08 167.74
KRW 16.23 18.04 19.68
KWD - 82,668.54 85,973.23
MYR - 5,379.96 5,497.28
NOK - 2,331.49 2,430.47
RUB - 266.28 294.77
SAR - 6,767.26 7,037.78
SEK - 2,325.99 2,424.74
SGD 18,433.15 18,619.34 19,216.61
THB 621.40 690.45 716.88
USD 25,220.00 25,250.00 25,450.00
Cập nhật: 19/05/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,710 16,730 17,330
CAD 18,384 18,394 19,094
CHF 27,469 27,489 28,439
CNY - 3,452 3,592
DKK - 3,617 3,787
EUR #26,804 27,014 28,304
GBP 31,758 31,768 32,938
HKD 3,131 3,141 3,336
JPY 159.26 159.41 168.96
KRW 16.61 16.81 20.61
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,302 2,422
NZD 15,345 15,355 15,935
SEK - 2,300 2,435
SGD 18,349 18,359 19,159
THB 652.14 692.14 720.14
USD #25,165 25,165 25,450
Cập nhật: 19/05/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,150.00 25,450.00
EUR 27,087.00 27,196.00 28,407.00
GBP 31,525.00 31,715.00 32,705.00
HKD 3,195.00 3,208.00 3,314.00
CHF 27,506.00 27,616.00 28,486.00
JPY 159.51 160.15 167.51
AUD 16,660.00 16,727.00 17,239.00
SGD 18,533.00 18,607.00 19,168.00
THB 683.00 686.00 715.00
CAD 18,327.00 18,401.00 18,952.00
NZD 15,304.00 15,817.00
KRW 17.96 19.65
Cập nhật: 19/05/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25219 25219 25450
AUD 16721 16771 17284
CAD 18456 18506 18962
CHF 27722 27772 28325
CNY 0 3486.6 0
CZK 0 1030 0
DKK 0 3640 0
EUR 27342 27392 28094
GBP 31940 31990 32643
HKD 0 3250 0
JPY 161.21 161.71 166.26
KHR 0 5.6733 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.0393 0
MYR 0 5520 0
NOK 0 2305 0
NZD 0 15332 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2320 0
SGD 18686 18736 19293
THB 0 662 0
TWD 0 780 0
XAU 8750000 8750000 8980000
XBJ 7000000 7000000 7550000
Cập nhật: 19/05/2024 20:00