Chống thực phẩm bẩn: Nhiều bộ cùng quản lý, "nhiệm vụ bất khả thi"

18:37 | 24/09/2016

261 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Chưa bao giờ, ngộ độc thực phẩm lại là vấn đề đáng báo động như hiện nay. Chống thực phẩm bẩn trở thành nhiệm vụ của nhiều cơ quan ban ngành, nhưng càng đông cơ quan quản lý, càng khó khăn trong việc thực thi.

Làm thế nào để trả lại sự trong sạch cho thị trường thực phẩm để người nông dân, doanh nghiệp lẫn người dùng đều không bị ảnh hưởng?

Cuộc chiến không cân sức

Theo thống kê từ Bộ Y tế, năm 2015, toàn quốc có 171 vụ ngộ độc TP với 4.965 người mắc và 23 trường hợp tử vong. Tuy nhiên, chỉ trong vòng 4 tháng đầu năm 2016, cả nước đã xảy ra gần 30 vụ ngộ độc thực phẩm nghiêm trọng, khiến hơn 1.386 người bị ngộ độc, trong đó có 2 trường hợp tử vong. Riêng tháng 4/2016 đã xảy ra 9 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 375 người bị ngộ độc.

Tại TP.HCM, theo Chi cục VSATTP TP.HCM, chỉ trong 4 tháng đầu 2016, đã có 5 vụ ngộ độc thực phẩm, ảnh hưởng đến 248 người, bằng với cả năm 2014 và gần bằng với số người mắc trong năm 2015 là 268 người tại TP.HCM.

tin nhap 20160924183410
Măng ngâm hoá chất

Ông Nguyễn Duy Đức, Phân viện cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau quy hoạch cho biết: “Hầu hết, nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm đều do vi sinh vật, chiếm tỷ lệ cao nhất lên đến 52%, chiếm tỷ lệ 3/5 vụ xảy ra trong thời gian vừa qua. Nguyên nhân còn lại là do thực phẩm bị biến chất, hóa chất tồn dư trong thực phẩm… “.

Theo ông Đức, các thực phẩm không an toàn thường gặp hiện nay là: rau, củ, quả, do quá dư lượng thuốc trừ sâu, kim loại nặng; hải sản, mật ong (do dư lượng kháng sinh); cà phê, điều, lạc (độc tố, nấm mốc); thịt (chất tăng trưởng, tạo nạc cấm sử dụng…).

Tình hình đáng ngại như thế nhưng thực tế quản lý về vấn đề này, theo ông Đức hiện nay vẫn còn nhiều bất cập. Cụ thể, vấn đề an toàn thực phẩm do 5 bộ cùng quản lý, bao gồm: Bộ y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên Môi trường, Bộ Quốc phòng. Sự chồng chéo trong nhiệm vụ khiến việc xử lý, ngăn chặn thực phẩm bẩn trở thành “nhiệm vụ bất khả thi”.

“Hiện mới chỉ có TP.HCM là quyết liệt trong việc chống thực phẩm bẩn, thành lập ban an toàn thực phẩm ở TP.HCM để thực thi nhiệm vụ này. Các địa phương khác thì vấn đề quản lý vẫn còn nhiêu khuê, chồng chéo”, ông Đức nhận xét.

Mối nguy hại không ở trong một lãnh thổ

Có mặt tại Diễn đàn Trách nhiệm Xã hội Doanh nghiệp chủ đề “An toàn thực phẩm - Câu hỏi về sự phối hợp và tin tưởng lẫn nhau” tổ chức tại TP.HCM mới đây, rất nhiều chuyên gia cho biết, việc chống thực phẩm bẩn là một quy trình kéo dài, không chỉ từ người nuôi trồng hay kinh doanh mà là từ khâu chọn giống, hạt… cũng như sau thu hoạch, cung cấp ra thị trường.

“Hiện nay, thị trường rất nhiều sản phẩm được sản xuất, trồng ở các quốc gia khác nhau nên vấn đề chống thực phẩm bẩn mở rộng ra khỏi biên giới”, bà Hoàng Mai Vân Anh, Đại diện Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hiệp quốc (UNIDO) cho biết.

Theo kết quả khảo sát của UNIDO, ngoài những nguyên nhân chủ quan, do chính người nuôi, trồng, cung cấp… thì nguyên nhân gây nên mất an toàn thực phẩm của Việt Nam còn đến từ khách quan, từ khâu thu hoạch, vận chuyển.

Khảo sát từ Sơn La, địa phương cung cấp rau quả chính cho thị trường Hà Nội cho thấy, tỷ lệ thiệt hại sau thu hoạch cao. Cụ thể, rau ăn lá thiệt hại 30-40%, Cây ăn quả là 20-30%.

Để chuyển rau quả về Hà Nội, người vận chuyển cố gắng nhét vào đủ xe, tỷ lệ tổn thất sau vận chuyển rất cao. Điều này khiến cho nông sản bị dập, hỏng, khiến giá thành bị đội lên, phía người bán thì phải có những tính toán khác để không ảnh hưởng đến doanh thu.

Bà Mai đánh giá: “Thực sự, có quá nhiều điểm yếu trong hệ thống thực phẩm quốc gia”.

tin nhap 20160924183410
Dùng hoá chất trong thực phẩm đang là mối đe doạ lớn

Tiến sĩ Đinh Thị Mỹ Loan, Chủ tịch Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam cho biết, nhu cầu tiêu thụ thực phẩm ở Việt Nam ngày càng tăng. Tổ chức Giám sát kinh doanh Quốc tế (BMI) dự báo, tiêu thụ thực phẩm của Việt Nam giai đoạn 2011 – 2016 tăng 5,1%/năm, tương đương 29,5 tỷ USD. Không dừng lại ở đó, doanh số bán hàng thực phẩm tăng 10,2% trong năm 2016. Mức tăng trưởng hàng năm cho giai đoạn 2015‐2020 là 10,9%.

Nguyên nhân là vì khả năng chi trả tốt hơn và hệ thống bán lẻ phát triển hơn. Tuy nhiên, theo bà Loan, nhu cầu người dùng hiện nay không chỉ ăn ngon mặc đẹp mà bây giờ là ăn an toàn, xanh sạch, tiêu dùng bền vững.

“Để giải quyết vấn nạn thực phẩm bẩn, phải liên kết các tổ chức trong hệ thống. Không chỉ đợi cơ quan chức năng, người bán lẻ phải liên kết với nhà cung ứng để đảm bảo ATTP. Nhà bán lẻ phải trực tiếp là người kiểm tra, giám sát”, bà Loan nói.

Tuy nhiên, trong lúc chờ đợi các đơn vị có trách nhiệm hoàn thành nhiệm vụ, ở phía người dùng, vẫn rất khó nhận biết đâu là sản phẩm an toàn hay không. Khi không thể tẩy chay và trong điều kiện không đủ điều kiện mua sản phẩm an toàn, người tiêu dùng phải làm gì là câu hỏi rất lớn đang chờ giải đáp. Bởi, “quyền tiếp cận thực phẩm an toàn là quyền của tất cả mọi người, ngay từ thức ăn vặt đến bữa chính hằng ngày. Không phải quyền của riêng người có thu nhập tốt”, ông Florian Beranek, chuyên gia cao cấp về trách nhiệm xã hội Unido khẳng định.

Phương Quyên

Dân trí

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC HCM 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC ĐN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Nguyên liệu 9999 - HN 74,200 ▲950K 75,150 ▲950K
Nguyên liệu 999 - HN 74,100 ▲950K 75,050 ▲950K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Cập nhật: 26/04/2024 16:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
TPHCM - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Hà Nội - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
Hà Nội - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Đà Nẵng - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
Đà Nẵng - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Miền Tây - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
Miền Tây - SJC 83.000 ▲1000K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.450 ▲450K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.450 ▲450K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.400 ▲500K 74.200 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.400 ▲370K 55.800 ▲370K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.160 ▲290K 43.560 ▲290K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.620 ▲210K 31.020 ▲210K
Cập nhật: 26/04/2024 16:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,365 ▲60K 7,570 ▲60K
Trang sức 99.9 7,355 ▲60K 7,560 ▲60K
NL 99.99 7,360 ▲60K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,340 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,430 ▲60K 7,600 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,430 ▲60K 7,600 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,430 ▲60K 7,600 ▲60K
Miếng SJC Thái Bình 8,300 ▲70K 8,510 ▲80K
Miếng SJC Nghệ An 8,300 ▲70K 8,510 ▲80K
Miếng SJC Hà Nội 8,300 ▲70K 8,510 ▲80K
Cập nhật: 26/04/2024 16:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 ▲1000K 85,200 ▲900K
SJC 5c 83,000 ▲1000K 85,220 ▲900K
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 ▲1000K 85,230 ▲900K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,700 ▲600K 75,400 ▲600K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,700 ▲600K 75,500 ▲600K
Nữ Trang 99.99% 73,600 ▲700K 74,600 ▲600K
Nữ Trang 99% 71,861 ▲594K 73,861 ▲594K
Nữ Trang 68% 48,383 ▲408K 50,883 ▲408K
Nữ Trang 41.7% 28,761 ▲250K 31,261 ▲250K
Cập nhật: 26/04/2024 16:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,112.17 16,274.92 16,797.08
CAD 18,090.44 18,273.17 18,859.45
CHF 27,072.22 27,345.68 28,223.04
CNY 3,429.67 3,464.31 3,576.00
DKK - 3,579.44 3,716.52
EUR 26,496.28 26,763.92 27,949.19
GBP 30,880.63 31,192.55 32,193.34
HKD 3,156.04 3,187.92 3,290.20
INR - 303.48 315.61
JPY 157.98 159.58 167.21
KRW 15.95 17.72 19.33
KWD - 82,209.56 85,496.44
MYR - 5,249.99 5,364.51
NOK - 2,265.53 2,361.72
RUB - 261.73 289.74
SAR - 6,740.29 7,009.77
SEK - 2,281.68 2,378.56
SGD 18,179.62 18,363.26 18,952.42
THB 605.24 672.49 698.24
USD 25,118.00 25,148.00 25,458.00
Cập nhật: 26/04/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,326 16,426 16,876
CAD 18,311 18,411 18,961
CHF 27,324 27,429 28,229
CNY - 3,456 3,566
DKK - 3,595 3,725
EUR #26,718 26,753 28,013
GBP 31,293 31,343 32,303
HKD 3,161 3,176 3,311
JPY 158.32 158.32 166.27
KRW 16.62 17.42 20.22
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,271 2,351
NZD 14,848 14,898 15,415
SEK - 2,281 2,391
SGD 18,174 18,274 19,004
THB 632.55 676.89 700.55
USD #25,125 25,125 25,458
Cập nhật: 26/04/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 26/04/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25130 25130 25450
AUD 16368 16418 16921
CAD 18357 18407 18862
CHF 27515 27565 28127
CNY 0 3460.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26927 26977 27679
GBP 31415 31465 32130
HKD 0 3140 0
JPY 159.62 160.12 164.63
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0321 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14889 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18414 18464 19017
THB 0 644.8 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8430000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 26/04/2024 16:00