Các hiệp định tránh đánh thuế hai lần

Cần đánh giá mức độ tối ưu

07:12 | 07/12/2017

518 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Các hiệp định tránh đánh thuế hai lần (DTTs) làm giảm nguồn thu ngân sách cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Chính vì vậy, các chuyên gia khuyến nghị, Việt Nam cần đánh giá kỹ lưỡng những tác động của DTTs hiện có trước khi ký kết hay đàm phán DTTs mới.  
can danh gia muc do toi uu
Ông Nguyễn Ánh Dương - Phó trưởng Ban Chính sách kinh tế vĩ mô, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương

Ngày 23-11-2017, Quỹ Hỗ trợ chương trình, dự án An sinh xã hội Việt Nam (AFV) và Tổ chức ActionAid quốc tế tại Việt Nam (AAV) đã tổ chức Tọa đàm về “Các hiệp định tránh đánh thuế hai lần và vấn đề việc làm thỏa đáng cho phụ nữ - một số quan sát và kiến nghị” với mục đích gây ảnh hưởng đến việc xây dựng các chính sách kinh tế, thuế để cải thiện cuộc sống người chịu nhiều thiệt thòi, đặc biệt là phụ nữ. Việt Nam đã tham gia vào 77 DTTs từ năm 1992, nhiều hơn tổng số các DTTs đã ký kết với cả 4 nước Lào, Myanmar, Campuchia và Philippines cộng lại.

Theo nghiên cứu về các hiệp định thuế toàn cầu của Tổ chức ActionAid quốc tế (Tổ chức quốc tế về chống đói, nghèo), khi so sánh các đặc trưng cơ bản của 519 DTTs và đánh giá mức độ mà mỗi hiệp định này bảo vệ hay hạn chế khả năng mà các nước đang phát triển có thể đánh thuế các công ty nước ngoài cho thấy: Các DTTs của Việt Nam có tính bảo hộ cao hơn so với các hiệp định của các nước đang phát triển và các nước thu nhập trung bình thấp.

Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra một số DTTs đã hạn chế quyền về thuế của Việt Nam. Đơn cử như DTTs giữa Việt Nam và Anh được ký kết và ban hành vào năm 1994. Thực tế cho thấy, vì nước Anh có nhiều hoạt động đầu tư vào Việt Nam hơn so với chiều ngược lại nên Việt Nam trở thành nước chịu thua thiệt khi các điều khoản trong hiệp định này hạn chế việc đánh thuế của Việt Nam.

Liên quan đến DTTs, trao đổi với phóng viên Báo Năng lượng Mới, ông Nguyễn Ánh Dương - Phó trưởng Ban Chính sách kinh tế vĩ mô, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho biết: “Thời gian vừa qua, chủ chương của chúng ta là chủ động mở cửa, đa dạng hóa, đa phương hóa hợp tác kinh tế quốc tế và khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Vì thế, cần tạo môi trường ổn định, tự do để thu hút đầu tư. Trong nỗ lực để khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài, cần có các hiệp định tránh đánh thuế hai lần nhằm giảm chi phí cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đến Việt Nam”.

Cũng theo ông Nguyễn Ánh Dương, để đánh giá đầy đủ các tác động từ các hiệp định DTTs cần phải phân tích và tìm hiểu đầy đủ các khía cạnh, từ việc thu hút đầu tư nước ngoài, đánh giá các dự án đầu tư nước ngoài đến Việt Nam và triển vọng thực hiện trong thời gian tới. Nghiên cứu của Tổ chức ActionAid quốc tế, với mục đích nhìn nhận lại các DTTs mà nước ta đã ký với các nước trong thời gian qua, để xem mức độ tác động của các hiệp định trong tương quan so với các nước đang phát triển ở trình độ tương đương, từ đó đưa ra các câu hỏi: Với số lượng ký kết các DTTs như vậy, Việt Nam đã đạt đến điểm tối ưu hay chưa? Hay vẫn cần cân nhắc và đàm phán ký kết thêm những hiệp định khác nữa? Trong trường hợp những DTTs đó không mang lại nhiều lợi ích như mong đợi, Việt Nam có nên rà soát và đàm phán lại các hiệp định này hay không?

can danh gia muc do toi uu

Ông Nguyễn Ánh Dương cũng khẳng định: “Việt Nam không tránh các DTTs, bởi nước ta đang chủ động hơn trong quá trình hội nhập. Vì thế, Việt Nam mong muốn hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài để có những cơ hội, những nguồn lực từ nước ngoài đầu tư phát triển đất nước. Và, chính các DTTs, những hiệp định về bảo hộ đầu tư là những thông lệ chung trên toàn thế giới nhằm tạo điều kiện thu hút nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, nên cân nhắc mức độ tham gia các hiệp định này như thế nào là tối ưu để không ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách từ đầu tư nước ngoài và nguồn lực để cung ứng các dịch vụ công”.

Đặc biệt, từ khi có Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18-11-2016 của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách Nhà nước, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, thì yêu cầu về xem xét lại các DTTs được xem là vô cùng cần thiết. Bởi đây là một trong những nguyên nhân có thể ảnh hưởng đến khả năng thu thuế của ngân sách đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.

Hơn nữa, trong quan hệ quốc tế thường dựa trên nguyên tắc “có đi có lại”, đặc biệt với nhiều nước đối tác hiện nay của Việt Nam, việc chúng ta đầu tư ra nước ngoài và được hưởng lợi từ bên ngoài thì chưa nhìn thấy. Đối với người lao động của Việt Nam ra nước ngoài làm việc cũng chỉ tập trung ở một số thị trường nhất định, không phải thị trường nào có DTTs. Chính vì vậy, phần lợi mà Việt Nam thu được từ các hiệp định này chưa tương xứng với phần thu ngân sách mất đi khi dành cho nhà đầu tư nước ngoài và người nước ngoài đến Việt Nam làm việc. Tuy nhiên, để đàm phán lại những DTTs không phải việc dễ dàng, vì phải nhận được sự đồng thuận của đối tác.

Phó trưởng Ban Chính sách kinh tế vĩ mô một lần nữa nhấn mạnh: “Quan trọng hơn, nhìn từ những bài học trên, chúng ta cần rút ra kinh nghiệm để mỗi khi ký một DTTs với một đối tác nào khác, chúng ta có những cân nhắc thấu đáo hơn”.

DTTs được hiểu là những thỏa thuận giữa các quốc gia nhằm chia sẻ quyền lợi về thuế. Với DTTs, một công ty hay cá nhân sẽ không bị đánh thuế hai lần khi họ có trụ sở tại một quốc gia nhưng lại tạo ra thu nhập ở một quốc gia khác.

Mỹ Hạnh - Song Nguyễn

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 84,800
AVPL/SJC HCM 82,600 84,800
AVPL/SJC ĐN 82,600 84,800
Nguyên liệu 9999 - HN 74,500 75,450
Nguyên liệu 999 - HN 74,400 75,350
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 84,800
Cập nhật: 27/04/2024 11:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 75.600
TPHCM - SJC 83.000 85.200
Hà Nội - PNJ 73.800 75.600
Hà Nội - SJC 83.000 85.200
Đà Nẵng - PNJ 73.800 75.600
Đà Nẵng - SJC 83.000 85.200
Miền Tây - PNJ 73.800 75.600
Miền Tây - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 75.600
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 74.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 56.030
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 43.730
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 31.140
Cập nhật: 27/04/2024 11:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 7,590
Trang sức 99.9 7,375 7,580
NL 99.99 7,380
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 7,620
Miếng SJC Thái Bình 8,320 8,520
Miếng SJC Nghệ An 8,320 8,520
Miếng SJC Hà Nội 8,320 8,520
Cập nhật: 27/04/2024 11:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 85,200
SJC 5c 83,000 85,220
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 85,230
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 75,500
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 75,600
Nữ Trang 99.99% 73,700 74,700
Nữ Trang 99% 71,960 73,960
Nữ Trang 68% 48,451 50,951
Nữ Trang 41.7% 28,803 31,303
Cập nhật: 27/04/2024 11:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 27/04/2024 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,233 16,253 16,853
CAD 18,228 18,238 18,938
CHF 27,206 27,226 28,176
CNY - 3,427 3,567
DKK - 3,544 3,714
EUR #26,239 26,449 27,739
GBP 31,095 31,105 32,275
HKD 3,107 3,117 3,312
JPY 156.48 156.63 166.18
KRW 16.2 16.4 20.2
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,217 2,337
NZD 14,797 14,807 15,387
SEK - 2,241 2,376
SGD 18,043 18,053 18,853
THB 632.05 672.05 700.05
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 27/04/2024 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 27/04/2024 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 27/04/2024 11:00