Xuất khẩu nông - thủy sản: Cách nào để bền vững?

09:39 | 08/06/2015

974 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Số liệu thống kê cho thấy, dù đã gần hết quý II/2015, cán cân thương mại của Việt Nam đang bị thâm hụt, trong đó có cả mặt hàng nông thủy sản - mặt hàng vốn được coi là thế mạnh của chúng ta. Mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu 10% trong năm 2015 mà Quốc hội, Chính phủ đề ra liệu có khả thi? Và để đạt được mục tiêu này, chúng ta cần phải làm gì?

Thu hoạch dưa hấu ở huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên.

Nông sản sụt giảm

Thống kê của Bộ Công Thương cho thấy, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông sản, thủy sản tháng 5 ước đạt 1,8 tỉ USD, tăng 0,3% so với tháng trước và giảm 7,7% so với cùng kỳ năm 2014. Trong đó, các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh so với cùng kỳ là sắn và các sản phẩm từ sắn ước tăng 47,5%, nhân điều tăng 25,6%, rau quả tăng 17,8%; các mặt hàng có kim ngạch giảm so với cùng kỳ là thủy sản ước đạt 2,44 tỉ USD, giảm 16,1%; cà phê ước đạt 1,2 tỉ USD, giảm 38,2%; gạo ước đạt 1,1 tỉ USD, giảm 10,7% và cao su ước đạt 464 triệu USD, giảm 5,2%.

Cũng theo Bộ Công Thương, sự sụt giảm của nhóm hàng nông - thủy sản cùng với một số mặt hàng xuất khẩu theo đường tiểu ngạch vào Trung Quốc như dưa hấu, thanh long, hành tím, vải... gặp khó khăn đã khiến cán cân thương mại 5 tháng thâm hụt hàng tỉ USD.

Như vậy kết quả xuất khẩu từ đầu năm đến nay đã không như kỳ vọng và liệu nó có khó khăn hơn trong thời gian tới nữa hay không vẫn là câu hỏi được nhiều doanh nghiệp quan tâm. Tuy nhiên, đánh giá chung về tình hình xuất khẩu những tháng gần đây, các chuyên gia kinh tế cho rằng, đã có những chuyển biến tích cực. Kim ngạch xuất khẩu duy trì đà tăng trưởng dù không cao, thị trường được mở rộng theo phương châm đa dạng, đa phương hóa; cơ cấu thị trường xuất khẩu đã có nhiều thay đổi theo hướng có trọng tâm ít bị phụ thuộc.

Trong số 14 thị trường xuất khẩu đạt kim ngạch hơn 1 tỉ USD trong tháng 4-2015 thì có 9 thị trường ở châu Á, 3 ở châu Âu và ở Mỹ, Úc. Kim ngạch xuất khẩu trong 4 tháng tại 14 thị trường này đạt gần 35,2 tỉ USD, chiếm tới 70,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đặc biệt tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cao hơn tốc độ tăng chung của tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (8,6% so với 6,9%). Trong đó, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu vào một số thị trường còn cao hơn, như Hongkong (tăng 43,4%), Hà Lan (28,9%), Hàn Quốc (21,4%), Indonesia (19,5%), Hoa Kỳ (15,7%), Đức (14,8%), Anh (11,3%), UAE (10,5%).

Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Cẩm Tú cho rằng, dù đã đạt được một số kết quả khả quan nhưng vẫn trong thời gian qua đã nổi lên một số hạn chế, khó khăn. Cụ thể tăng trưởng các khu vực dịch vụ và nông, lâm, thủy sản đạt thấp hơn cùng kỳ; việc tiêu thụ một số mặt hàng nông sản khó khăn; nhập siêu có xu hướng tăng; tình hình thời tiết diễn biến thất thường, nhất là tình hình khô hạn kéo dài ở miền Trung, Tây Nguyên đã ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất công nông nghiệp của doanh nghiệp và nhân dân.

Doanh nghiệp cần chủ động

Đại diện Bộ Công Thương thừa nhận rằng, mặc dù chất lượng sản phẩm nông, lâm, thủy sản xuất khẩu của Việt Nam đã có nhiều tiến bộ, tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm qua chế biến bắt đầu gia tăng. Tuy vậy, xét về tổng thể, năng lực cạnh tranh của nhóm mặt hàng chủ lực “thuần Việt” vẫn chưa được cải thiện nhiều. Cụ thể, chất lượng một số sản phẩm chưa cao, chưa đa dạng và đồng đều… trong khi đó doanh nghiệp phải cạnh tranh gay gắt từ các nước có cùng chủng loại sản phẩm ở các quốc gia khác. Thêm vào đó, các quốc gia nhập khẩu tiếp tục đưa ra nhiều rào cản kỹ thuật và thương mại, yêu cầu chất lượng ngày càng khắt khe hơn đối với hàng hóa của Việt Nam, nhất là nhóm hàng có nguồn gốc thực phẩm (bằng chứng là có nhiều lời cảnh báo, thậm chí đã có lô hàng trả về)...

Sở dĩ có tình trạng nêu trên là do chúng ta chưa có một chiến lược bền vững trong nông nghiệp. Việc nuôi trồng, đánh bắt, thu hoạch, sản xuất hiện nay được thực hiện một cách phân tán, tự phát với quy mô nhỏ lẻ, manh mún, thậm chí phá vỡ quy hoạch, dẫn đến việc khó có thể kiểm soát được chất lượng đầu vào và đầu ra của sản phẩm nông, lâm, thủy sản. Bên cạnh đó, khâu quản lý chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực chế biến, xử lý sau thu hoạch cũng chưa thực sự được chú trọng trong thời gian qua. Điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của sản phẩm xuất khẩu.

Để thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản mang tính bền vững, Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh cho rằng, cần khắc phục các yếu điểm trên. Nhưng quan trọng hơn cả là doanh nghiệp cần chủ động tích cực vào cuộc bên cạnh sự hỗ trợ của cơ quan quản lý Nhà nước; đẩy mạnh thị trường xuất khẩu nhưng cần chú trọng đến thị trường nội địa, nghĩa là phải đi bằng cả hai chân.  

Đối với thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp chủ động xây dựng phương án, tổ chức triển khai các hoạt động kết nối cung cầu để kết nối giữa vùng sản xuất với hệ thống phân phối nhằm quản lý theo chuỗi hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa; tăng cường xây dựng thương hiệu; đẩy mạnh việc nghiên cứu, tìm kiếm, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, nhất là các thị trường mới như châu Phi... Tận dụng các hiệp định thương mại song phương đã và sẽ được ký kết để xuất khẩu hàng hóa.

Với thị trường nội địa, doanh nghiệp cần tiếp tục tuyên truyền, quảng bá sản phẩm dịch vụ và thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” nhằm nâng cao nhận thức và hành vi tiêu dùng của hơn 90 triệu người Việt Nam, khơi dậy sự tin tưởng, ủng hộ và ưu tiên mua sắm đối với các sản phẩm nông, lâm, thủy sản trong nước thay cho việc mua sắm hàng ngoại đã tồn tại lâu nay.

Về phía Bộ Công Thương, đã và đang tiếp tục duy trì các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu, tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, kiểm soát nhập khẩu hiệu quả, đảm bảo thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng trưởng xuất khẩu 10% và kiểm soát nhập siêu năm 2015. Đồng thời, thành lập đoàn công tác làm việc với phía Trung Quốc về thương mại gạo, nông sản, khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới, Hiệp định thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc thay thế Hiệp định về “mua bán hàng hóa ở vùng biên giới Việt Nam - Trung Quốc” ký năm 1998 và các nội dung có liên quan. Chủ trì cùng các đơn vị liên quan và tỉnh Lạng Sơn để xây dựng khu trung chuyển tập kết hàng nông sản, rau quả... phục vụ hoạt động xuất khẩu sang Trung Quốc.

Bên cạnh đó, để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu trong lĩnh vực nông - thủy sản, Bộ Công Thương đã làm việc với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về giải pháp sản xuất và tiêu thụ xuất khẩu nông sản; xây dựng và thực hiện có hiệu quả Đề án Phát triển thị trường trong nước gắn với cuộc vận động "Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam" giai đoạn 2014 - 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt...

Vũ Sơn

(Năng lượng Mới)

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,000 ▼500K 120,000 ▼500K
AVPL/SJC HCM 118,000 ▼500K 120,000 ▼500K
AVPL/SJC ĐN 118,000 ▼500K 120,000 ▼500K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,970 ▼50K 11,250 ▼50K
Nguyên liệu 999 - HN 10,960 ▼50K 11,240 ▼50K
Cập nhật: 14/05/2025 16:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.000 115.500
TPHCM - SJC 118.000 ▼500K 120.000 ▼500K
Hà Nội - PNJ 113.000 115.500
Hà Nội - SJC 118.000 ▼500K 120.000 ▼500K
Đà Nẵng - PNJ 113.000 115.500
Đà Nẵng - SJC 118.000 ▼500K 120.000 ▼500K
Miền Tây - PNJ 113.000 115.500
Miền Tây - SJC 118.000 ▼500K 120.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.000 115.500
Giá vàng nữ trang - SJC 118.000 ▼500K 120.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.000
Giá vàng nữ trang - SJC 118.000 ▼500K 120.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.000 115.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.000 115.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.800 115.300
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.690 115.190
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.980 114.480
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.750 114.250
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.130 86.630
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.100 67.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.620 48.120
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.220 105.720
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.980 70.480
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.600 75.100
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.050 78.550
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.890 43.390
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.700 38.200
Cập nhật: 14/05/2025 16:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,090 11,540
Trang sức 99.9 11,080 11,530
NL 99.99 10,750 ▼100K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,750 ▼100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,300 11,600
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,300 11,600
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,300 11,600
Miếng SJC Thái Bình 11,800 ▼50K 12,000 ▼50K
Miếng SJC Nghệ An 11,800 ▼50K 12,000 ▼50K
Miếng SJC Hà Nội 11,800 ▼50K 12,000 ▼50K
Cập nhật: 14/05/2025 16:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16274 16542 17123
CAD 18096 18371 18988
CHF 30275 30650 31295
CNY 0 3358 3600
EUR 28416 28682 29709
GBP 33732 34121 35049
HKD 0 3195 3397
JPY 169 173 179
KRW 0 17 19
NZD 0 15096 15684
SGD 19390 19670 20196
THB 694 757 810
USD (1,2) 25690 0 0
USD (5,10,20) 25728 0 0
USD (50,100) 25756 25790 26132
Cập nhật: 14/05/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,780 25,780 26,140
USD(1-2-5) 24,749 - -
USD(10-20) 24,749 - -
GBP 34,107 34,199 35,114
HKD 3,267 3,277 3,376
CHF 30,489 30,584 31,439
JPY 173 173.31 181.04
THB 743.09 752.26 804.38
AUD 16,584 16,644 17,094
CAD 18,396 18,455 18,950
SGD 19,605 19,666 20,288
SEK - 2,631 2,725
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,832 3,964
NOK - 2,469 2,555
CNY - 3,562 3,658
RUB - - -
NZD 15,084 15,224 15,666
KRW 16.98 17.71 19.03
EUR 28,593 28,615 29,834
TWD 774.07 - 936.54
MYR 5,625.47 - 6,347.43
SAR - 6,805.15 7,162.95
KWD - 82,215 87,418
XAU - - -
Cập nhật: 14/05/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,770 25,780 26,120
EUR 28,452 28,566 29,668
GBP 33,916 34,052 35,023
HKD 3,262 3,275 3,381
CHF 30,354 30,476 31,375
JPY 171.89 172.58 179.66
AUD 16,458 16,524 17,055
SGD 19,594 19,673 20,210
THB 759 762 796
CAD 18,293 18,366 18,877
NZD 15,157 15,665
KRW 17.53 19.31
Cập nhật: 14/05/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25770 25770 26130
AUD 16434 16534 17102
CAD 18274 18374 18929
CHF 30504 30534 31426
CNY 0 3561.8 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28683 28783 29555
GBP 34001 34051 35161
HKD 0 3355 0
JPY 172.9 173.9 180.46
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15199 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19549 19679 20412
THB 0 723.8 0
TWD 0 845 0
XAU 11800000 11800000 12000000
XBJ 11000000 11000000 12000000
Cập nhật: 14/05/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,780 25,830 26,180
USD20 25,780 25,830 26,180
USD1 25,780 25,830 26,180
AUD 16,505 16,655 17,719
EUR 28,735 28,885 30,057
CAD 18,237 18,337 19,649
SGD 19,635 19,785 20,252
JPY 173.45 174.95 179.53
GBP 34,124 34,274 35,550
XAU 11,798,000 0 12,002,000
CNY 0 3,446 0
THB 0 759 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 14/05/2025 16:00