Phá tảng băng hàng tồn kho để cứu doanh nghiệp

16:21 | 30/07/2012

1,043 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) - Nợ xấu, nợ quá hạn của doanh nghiệp bắt đầu từ hàng tồn kho nhiều khi sức cầu của nền kinh tế bị suy giảm nghiêm trọng. Nếu không xóa tảng băng hàng tồn kho thì doanh nghiệp và cả ngân hàng đều hết sức khó khăn.

Theo ông Văn Đức Mười - Chủ tịch Hội Lương thực Thực phẩm TP HCM, tồn kho chung của nền kinh tế hiện rất lớn, doanh nghiệp bị tồn kho nguyên liệu, hàng hóa, còn ngân hàng cũng bị tồn kho tiền cho vay. Nhìn trên diện rộng, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang gặp rất nhiều khó khăn. Sức mua kém, doanh nghiệp không phát triển được thị trường, đình đốn sản xuất. Tính đến nay, tốc độ tăng trưởng tín dụng của cả nước chỉ đạt 0,9% là điều đáng lo ngại của nền kinh tế.

Ông Trương Văn Phước - Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) cho biết: vừa qua, Eximbank tổ chức thống kê khó khăn của 42% các doanh nghiệp trên địa bàn TP HCM có vay vốn Eximbank, kết quả cho thấy: Giá trị hàng tồn kho của các doanh nghiệp gấp đôi dư nợ của các doanh nghiệp này. Trong đó, chỉ có 27% giá trị hàng tồn kho có khả năng luân chuyển, còn lại bất động. Ngoài ra, trong tổng chi phí của doanh nghiệp thì lãi vay ngân hàng chiếm khoảng 24%, các chi phí còn lại đến từ hàng tồn kho ứ đọng lâu ngày. Tảng băng bất động của nguồn vốn, vật tư, nguyên liệu, hàng hóa tồn kho đưa đến nợ xấu gia tăng. Nếu không phá tảng băng này của nền kinh tế thì doanh nghiệp và cả ngân hàng đều hết sức khó khăn.

Cũng theo ông Trương Văn Phước, nợ xấu, nợ quá hạn của doanh nghiệp bắt đầu từ sức cầu của nền kinh tế bị suy giảm nghiêm trọng. Lạm phát trong 7 tháng đầu năm nằm ở mức 2,22%. Trong khoảng 3 tháng trở lại đây, chỉ số gia tiêu dùng (CPI) ở nhiều thành phố lớn bị âm. Với CPI âm thì chúng ta đang “bước 1 chân” vào chu kỳ giảm phát. Chính phủ cần xem lại chính sách vĩ mô, kích cầu như thế nào, kích cầu bao nhiêu để vừa ổn định kinh tế vĩ mô vừa kích cầu đầu tư.

Hàng tồn kho cao là nguyên nhân phát sinh nợ xấu

Đại diện Hội Cơ Điện TP HCM chia sẻ: Hiện nay, phần lớn các sản phẩm sản xuất ra rất khó tiêu thụ. Với ngành cơ khí sản xuất ra hàng tiêu dùng hiện còn bán được hàng nhưng sức mua bị giảm sút khoảng 30%. Các doanh nghiệp hầu như phải “thở oxy”. Do đó, buộc doanh nghiệp phải tái cơ cấu lại ngành nghề, cơ cấu lại sản xuất. Khi chuyển đổi ngành nghề, cơ cấu lại sản xuất thì doanh nghiệp gặp khó khăn do hết tài sản đảm bảo vì một mặt tài sản đảm bảo bị giảm xuống do tình hình khó khăn, vốn lưu động giảm, khấu hao cho các đầu tư cũ chưa thu hồi được. Do đó, ngành cơ khí đề nghị ngân hàng hỗ trợ các doanh nghiệp có dự án mới, đầu tư mới, ứng dụng công nghệ cao được vay tín chấp hoặc thế chấp bằng tài sản hình thành trong quá trình đầu tư. Đồng thời, đề nghị các ngân hàng xem xét lại các khoản nợ đọng để có biện pháp khoanh nợ, giãn nợ, giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn.

Hiện nay, bên cạnh các gói hỗ trợ lãi suất thấp cho doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại cũng có biện pháp cùng với doanh nghiệp tháo gỡ hàng tồn kho và kích cầu tiêu dùng.

Ông Trần Phương Bình - Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Đông Á (Dong A Bank) cho biết: Ngân hàng sẵn sàng cho vay mua nhà, mua căn hộ trong năm đầu tiên với lãi suất 12% với điều kiện doanh nghiệp bất động sản phải giảm giá bán để phù hợp với thị trường. Cả doanh nghiệp và ngân hàng phải cùng đồng hành để góp phần phá tảng băng tồn kho bất động sản.

Đến ngày 27/7, Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) đã giãn nợ, cơ cấu lại nợ cho các doanh nghiệp với số tiền hơn 1.500 tỉ đồng. Riêng về các khoản nợ cũ, đã điều chỉnh mức lãi suất 15% trở xuống với tổng dư nợ hơn 8000 tỉ đồng. Gói hỗ trợ doanh nghiệp số tiền 2.000 tỉ đồng lãi suất 13%/năm và 50 triệu USD, lãi suất 4,5%/năm được đưa ra vào đầu tháng 7 thì đến nay đã giải ngân 1.700 tỉ đồng và 45 triệu USD. Vừa qua, ngày 26/7, Sacombank triển khai gói 1.000 tỉ với lãi suất 13 – 14%/năm hỗ trợ các doanh nghiệp tại TP HCM. Ngoài ra, nhằm góp phần tháo gỡ hàng tồn kho, Sacombank triển khai hỗ trợ vốn cho các nhà phân phối của các công ty sản xuất để đẩy mạnh việc phân phối, giải quyết hàng tồn kho.

Mai Phương

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 83,500 85,700
AVPL/SJC HCM 83,500 85,700
AVPL/SJC ĐN 83,500 85,700
Nguyên liệu 9999 - HN 73,450 74,250
Nguyên liệu 999 - HN 73,350 73,950
AVPL/SJC Cần Thơ 83,500 85,700
Cập nhật: 04/05/2024 08:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.100 74.950
TPHCM - SJC 83.500 85.800
Hà Nội - PNJ 73.100 74.950
Hà Nội - SJC 83.500 85.800
Đà Nẵng - PNJ 73.100 74.950
Đà Nẵng - SJC 83.500 85.800
Miền Tây - PNJ 73.100 74.950
Miền Tây - SJC 83.500 85.800
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.100 74.950
Giá vàng nữ trang - SJC 83.500 85.800
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.100
Giá vàng nữ trang - SJC 83.500 85.800
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.100
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.000 73.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.100 55.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.920 43.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.450 30.850
Cập nhật: 04/05/2024 08:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,295 7,495
Trang sức 99.9 7,285 7,485
NL 99.99 7,290
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,270
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,360 7,525
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,360 7,525
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,360 7,525
Miếng SJC Thái Bình 8,360 8,580
Miếng SJC Nghệ An 8,360 8,580
Miếng SJC Hà Nội 8,360 8,580
Cập nhật: 04/05/2024 08:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,500 85,800
SJC 5c 83,500 85,820
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,500 85,830
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 74,800
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 74,900
Nữ Trang 99.99% 73,000 74,000
Nữ Trang 99% 71,267 73,267
Nữ Trang 68% 47,975 50,475
Nữ Trang 41.7% 28,511 31,011
Cập nhật: 04/05/2024 08:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,290.45 16,455.00 16,982.87
CAD 18,135.12 18,318.30 18,905.94
CHF 27,242.56 27,517.74 28,400.50
CNY 3,438.77 3,473.50 3,585.47
DKK - 3,590.52 3,728.01
EUR 26,579.41 26,847.89 28,036.75
GBP 31,065.04 31,378.83 32,385.45
HKD 3,170.39 3,202.41 3,305.15
INR - 303.91 316.06
JPY 160.99 162.62 170.39
KRW 16.07 17.86 19.48
KWD - 82,463.57 85,760.23
MYR - 5,312.32 5,428.17
NOK - 2,268.79 2,365.11
RUB - 265.48 293.88
SAR - 6,758.91 7,029.11
SEK - 2,294.29 2,391.69
SGD 18,312.06 18,497.03 19,090.41
THB 610.05 677.83 703.78
USD 25,113.00 25,143.00 25,453.00
Cập nhật: 04/05/2024 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,539 16,639 17,089
CAD 18,309 18,409 18,959
CHF 27,593 27,698 28,498
CNY - 3,468 3,578
DKK - 3,615 3,745
EUR #26,865 26,900 28,160
GBP 31,478 31,528 32,488
HKD 3,177 3,192 3,327
JPY 162.67 162.67 170.62
KRW 16.93 17.73 20.53
LAK - 0.9 1.26
NOK - 2,294 2,374
NZD 15,017 15,067 15,584
SEK - 2,297 2,407
SGD 18,371 18,471 19,201
THB 638.54 682.88 706.54
USD #25,190 25,190 25,453
Cập nhật: 04/05/2024 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,153.00 25,453.00
EUR 26,686.00 26,793.00 27,986.00
GBP 31,147.00 31,335.00 32,307.00
HKD 3,181.00 3,194.00 3,299.00
CHF 27,353.00 27,463.00 28,316.00
JPY 161.71 162.36 169.84
AUD 16,377.00 16,443.00 16,944.00
SGD 18,396.00 18,470.00 19,019.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 18,223.00 18,296.00 18,836.00
NZD 14,893.00 15,395.00
KRW 17.76 19.41
Cập nhật: 04/05/2024 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25184 25184 25453
AUD 16515 16565 17070
CAD 18390 18440 18895
CHF 27733 27783 28345
CNY 0 3473.7 0
CZK 0 1030 0
DKK 0 3640 0
EUR 27045 27095 27805
GBP 31665 31715 32375
HKD 0 3250 0
JPY 163.84 164.34 168.88
KHR 0 5.6733 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.0875 0
MYR 0 5520 0
NOK 0 2305 0
NZD 0 14985 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2320 0
SGD 18583 18633 19190
THB 0 650 0
TWD 0 780 0
XAU 8350000 8350000 8550000
XBJ 6500000 6500000 7280000
Cập nhật: 04/05/2024 08:00