Nông nghiệp trước sức ép cạnh tranh trong TPP

23:44 | 28/10/2015

1,009 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) – Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) dự kiến sẽ tạo ra nhiều thách thức lớn cũng như sức ép mở cửa thị trường đối với ngành nông nghiệp nước ta.

Tại hội thảo “Tác động của TPP đối với nông nghiệp và lao động Việt Nam” do Trường Đại học Văn Hiến tổ chức tại TP HCM ngày 28/10, TS. Hà Công Tuấn, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đánh giá, thách thức đối với ngành nông nghiệp trong TPP cơ bản từ 3 vấn đề: nền nông nghiệp phổ biển là sản xuất nhỏ, quy mô hộ gia đình, xuất khẩu nông sản thô; sức ép từ cạnh tranh với hàng nhập khẩu do giảm thuế quan cho tất cả các đối tác trong TPP và sức ép từ các rào cản phi thuế quan trong tiêu thụ một số mặt hàng nông sản nếu ta vẫn duy trì cách quản lý chất lượng như hiện nay.

Hiện nay, cả nước có khoảng 3.500 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp nhưng chủ yếu là những doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ. Doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm khoảng 60%, không thâm nhập được vào hệ thống phân phối chính nên xuất khẩu thiếu bền vững và không chi phối được thị trường.

Hầu hết các hộ nông dân, lực lượng sản xuất cơ bản của nông nghiệp thì rất yếu về tiềm lực kinh tế, sản xuất đơn lẻ, không tương thích với kinh tế thị trường và hội nhập hiện nay.

Cụ thể, nước ta có 11,9 triệu hộ sản xuất nông nghiệp, nhưng có đến 80% có diện tích canh tác dưới 1ha; hơn 4 triệu hộ nuôi lợn thì 77% nuôi dưới 5 con; 7,9 triệu hộ nuôi gà thì 90% nuôi dưới 49 con; tổng số 21 triệu lao động nông nghiệp thì có trên 97% không được đào tạo về nghề nghiệp.

tin nhap 20151028152752

Ngành chăn nuôi được đánh giá sẽ gặp nhiều khó khăn trong hội nhập

Trong đó, đặc biệt ngành chăn nuôi được xác định có nhiều yếu thế khi tham gia TPP bởi trình độ thấp nhưng phải cạnh tranh với những nước có nhiều lợi thế và trình độ vượt trội như: Canada, Australia, Mỹ.

Bên cạnh đó, hiện nay xuất khẩu nông sản của nước ta chủ yếu ở dạng nguyên liệu thô hoặc mới qua sơ chế, gia công nên giá cả, chất lượng và giá trị tăng thêm của nông sản xuất khẩu rất thấp.

Theo ông Nguyễn Đình Bích, Nguyên Phó trưởng Ban nghiên cứu chiến lược phát triển thương mại, Viện Nghiên cứu Thương mại Bộ Công Thương, Việt Nam là một nền kinh tế với tỷ trọng nông nghiệp còn quá lớn, lớn nhất trong TPP nhưng tài nguyên quan trọng bậc nhất cho sản xuất nông nghiệp là đất nông nghiệp lại quá ít.

Trong khi tổng dân cư trong khu vực nông thôn của cộng đồng TPP hiện hơn 180 triệu người thì riêng Việt Nam đã có hơn 60 triệu người nhưng quỹ đất nông nghiệp của Việt Nam chỉ chiếm vỏn vẹn 1% quỹ đất nông nghiệp của TPP.

Một thách thức khác không nhỏ đối với nông sản Việt Nam là vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm, quy trình sản xuất, nguồn gốc xuất xứ… Các vấn đề này dễ vấp phải các hàng rào phi thuế quan, thậm chí nhiều trường hợp còn có thể bị áp mức thuế trừng phạt cao hơn nhiều lần với mức thuế thông thường.

PGS.TS Nguyễn Minh Đức, Giám đốc điều hành Trường Đại học Văn Hiến cho rằng, nếu không chú trọng đến vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm các nông sản Việt Nam không chỉ gặp khó khăn trong xuất khẩu mà thậm chí còn không tiêu thụ được ngay ở thị trường nội địa khi Việt Nam đã cam kết bãi bỏ thuế suất đối với nông sản nhập từ các nước thành viên TPP hay từ các nước ASEAN. Thực tế trong những năm qua, kim ngạch nhập khẩu nông sản của nước ta gia tăng nhanh chóng, tạo ra áp lực canh tranh cho nông sản trên thị trường nội địa.

Trước vô vàn những khó khăn đặt ra cho ngành nông nghiệp trong hội nhập, các chuyên gia nhận định, nếu guồng máy quản lý, nông dân và doanh nghiệp không cải cách và liên kết thì trong sân chơi bình đẳng chung với sự điều tiết khách quan của thị trường, ta dễ bị “thua trên sân nhà”.

Do đó, cùng với quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng, TPP là động lực và là yêu cầu bắt buộc phải tái cơ cấu ngành nông nghiệp nếu muốn vượt qua thách thức, tận dụng cơ hội. Trong thời gian tới cần tiếp tục đẩy mạnh nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, phát triển chuỗi cung ứng cho nông sản để nâng cao sức cạnh tranh.

Mai Phương

 

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 83,500 85,700
AVPL/SJC HCM 83,500 85,700
AVPL/SJC ĐN 83,500 85,700
Nguyên liệu 9999 - HN 73,150 74,050
Nguyên liệu 999 - HN 73,050 73,950
AVPL/SJC Cần Thơ 83,500 85,700
Cập nhật: 05/05/2024 13:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.100 74.950
TPHCM - SJC 83.500 85.900
Hà Nội - PNJ 73.100 74.950
Hà Nội - SJC 83.500 85.900
Đà Nẵng - PNJ 73.100 74.950
Đà Nẵng - SJC 83.500 85.900
Miền Tây - PNJ 73.100 74.950
Miền Tây - SJC 83.500 85.900
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.100 74.950
Giá vàng nữ trang - SJC 83.500 85.900
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.100
Giá vàng nữ trang - SJC 83.500 85.900
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.100
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.000 73.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.100 55.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.920 43.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.450 30.850
Cập nhật: 05/05/2024 13:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,285 7,490
Trang sức 99.9 7,275 7,480
NL 99.99 7,280
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,260
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,350 7,520
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,350 7,520
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,350 7,520
Miếng SJC Thái Bình 8,360 8,580
Miếng SJC Nghệ An 8,360 8,580
Miếng SJC Hà Nội 8,360 8,580
Cập nhật: 05/05/2024 13:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,500 85,900
SJC 5c 83,500 85,920
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,500 85,930
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 74,800
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 74,900
Nữ Trang 99.99% 73,000 74,000
Nữ Trang 99% 71,267 73,267
Nữ Trang 68% 47,975 50,475
Nữ Trang 41.7% 28,511 31,011
Cập nhật: 05/05/2024 13:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,354.34 16,519.54 17,049.50
CAD 18,090.38 18,273.11 18,859.33
CHF 27,341.37 27,617.55 28,503.54
CNY 3,436.06 3,470.77 3,582.65
DKK - 3,598.26 3,736.05
EUR 26,625.30 26,894.25 28,085.20
GBP 31,045.53 31,359.12 32,365.15
HKD 3,169.44 3,201.45 3,304.16
INR - 303.80 315.94
JPY 161.02 162.65 170.43
KRW 16.21 18.02 19.65
KWD - 82,506.00 85,804.46
MYR - 5,303.65 5,419.33
NOK - 2,286.73 2,383.82
RUB - 265.97 294.43
SAR - 6,753.59 7,023.59
SEK - 2,299.45 2,397.08
SGD 18,345.10 18,530.40 19,124.88
THB 611.06 678.96 704.95
USD 25,117.00 25,147.00 25,457.00
Cập nhật: 05/05/2024 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,456 16,476 17,076
CAD 18,235 18,245 18,945
CHF 27,506 27,526 28,476
CNY - 3,435 3,575
DKK - 3,572 3,742
EUR #26,449 26,659 27,949
GBP 31,283 31,293 32,463
HKD 3,119 3,129 3,324
JPY 161.69 161.84 171.39
KRW 16.52 16.72 20.52
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,252 2,372
NZD 14,995 15,005 15,585
SEK - 2,270 2,405
SGD 18,246 18,256 19,056
THB 637.99 677.99 705.99
USD #25,100 25,100 25,457
Cập nhật: 05/05/2024 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,157.00 25,457.00
EUR 26,777.00 26,885.00 28,090.00
GBP 31,177.00 31,365.00 32,350.00
HKD 3,185.00 3,198.00 3,304.00
CHF 27,495.00 27,605.00 28,476.00
JPY 161.96 162.61 170.17
AUD 16,468.00 16,534.00 17,043.00
SGD 18,463.00 18,537.00 19,095.00
THB 674.00 677.00 705.00
CAD 18,207.00 18,280.00 18,826.00
NZD 0.00 15,007.00 15,516.00
KRW 0.00 17.91 19.60
Cập nhật: 05/05/2024 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25170 25170 25457
AUD 16588 16638 17148
CAD 18360 18410 18865
CHF 27797 27847 28409
CNY 0 3473 0
CZK 0 1030 0
DKK 0 3640 0
EUR 27081 27131 27841
GBP 31618 31668 32331
HKD 0 3250 0
JPY 164.03 164.53 169.07
KHR 0 5.6733 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.0371 0
MYR 0 5520 0
NOK 0 2305 0
NZD 0 15068 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2320 0
SGD 18623 18673 19227
THB 0 651.5 0
TWD 0 780 0
XAU 8350000 8350000 8550000
XBJ 6500000 6500000 7280000
Cập nhật: 05/05/2024 13:00