Góc nhìn TTP:

Ngành ngân hàng trước ngưỡng cửa TTP

07:15 | 26/11/2015

1,286 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
 Trong lĩnh vực ngân hàng, Việt Nam đã cam kết với các nước thành viên TPP về việc mở cửa dịch vụ tài chính. Tuy vậy, với một quốc gia có trình độ phát triển lĩnh vực này thấp nhất trong số các quốc gia đàm phán TTP, liệu những cam kết mở cửa có tác động gì trong thời gian tới?

Lĩnh vực ngân hàng sẽ mở rộng cửa

Dịch vụ tài chính là lĩnh vực đàm phán được các nước tham gia TPP đặc biệt quan tâm, kỳ vọng đưa TPP trở thành hiệp định tự do hóa của thế kỷ XXI với những cam kết sâu rộng về tiếp cận thị trường trên các lĩnh vực ngân hàng (NH), chứng khoán, bảo hiểm.

Với các thành viên TPP, thương mại dịch vụ ngày càng trở nên quan trọng nên các nước đã chia sẻ sự quan tâm và đạt được những thống nhất về tự do hóa thương mại dịch vụ, trong đó có lĩnh vực dịch vụ tài chính.

nganh ngan hang truoc nguong cua ttp

Trong nội dung Hiệp định TTP đã công bố, những cam kết về mở cửa ngành NH được đề cập đến trong chương về Đầu tư và chương Dịch vụ tài chính, theo đó TPP cung cấp các cơ hội mở cửa thị trường đầu tư và qua biên giới, trong khi đảm bảo rằng các thành viên TPP duy trì quyền quản lý đầy đủ đối với các tổ chức và thị trường tài chính, thực hiện các biện pháp khẩn cấp trong trường hợp khủng hoảng.

Điều này cho phép cung cấp dịch vụ tài chính qua biên giới cho một nước TPP từ một nhà cung cấp của một nước TPP khác mà không yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ phải thành lập cơ sở hoạt động tại một nước khác để bán các dịch vụ của mình nhưng phải phù hợp với quy định đăng ký hoặc ủy quyền cho các nhà cung cấp dịch vụ tài chính qua biên giới của một nước TPP khác nhằm đảm bảo cho công tác điều hành và giám sát phù hợp.

Nói cách khác, một nhà cung cấp dịch vụ của một thành viên TPP có thể cung cấp một dịch vụ tài chính mới tại thị trường của nước TPP khác nếu các công ty trong nước tại thị trường này được phép cung cấp dịch vụ đó.

Như vậy, với quy định này, lĩnh vực NH sẽ được mở cửa khá lớn, biên giới giữa các quốc gia gần như được xóa nhòa và quốc gia thành viên TTP này có thể được các ngân hàng ngoài khối sử dụng như “bàn đạp” để vươn ra cung cấp dịch vụ tài chính tại quốc gia thành viên TTP khác một cách dễ dàng.

Ngân hàng trong nước đối diện với nhiều áp lực

Với nước ta, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, sau gần 10 năm thực hiện cam kết gia nhập WTO, thị trường Việt Nam đã tương đối mở. Tuy nhiên, do ngành tài chính ngân hàng trong nước tương đối nhạy cảm do đang trong quá trình tái cơ cấu và từng bước mở cửa, do vậy sức ép cạnh tranh từ TPP lên lĩnh vực này có thể xuất hiện và gây áp lực đáng kể cho các NH trong nước.

Hiện nay, xét trên bình diện khu vực và thế giới, độ mở cửa của thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam vẫn còn thấp, các thị trường dịch vụ, thị trường lao động, khoa học công nghệ… vẫn chưa phát triển hoàn chỉnh hoặc mới chỉ manh nha hình thành. Do đó, mặt tích cực khi tham gia TPP sẽ giúp Việt Nam hội nhập sâu hơn vào thị trường tài chính thế giới cũng như có cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài, công nghệ và kinh nghiệm của các nước để phát triển lĩnh vực dịch vụ tài chính.

Tuy nhiên, khi các điều kiện thị trường khi dần được xóa bỏ theo cam kết TTP lại trở thành thách thức đối với thị trường tài chính của Việt Nam. Những thách thức trong nước đến từ những hạn chế của hệ thống NH, thị trường tài chính.

So với các nước thành viên TPP khác, thị trường dịch vụ tài chính của Việt Nam kém phát triển hơn rất nhiều, đặc biệt so với Hoa Kỳ hay các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan,.... Do vậy, áp lực cạnh tranh là không nhỏ khi các NH nước ngoài tiếp cận và tham gia thị trường dịch vụ tài chính của Việt Nam.

Chính điều này sẽ tăng cơ hội cho các NH quốc tế tiếp cận thị phần khách hàng trong nước, từ đó ảnh hưởng tới thị trường tiềm năng của các NH trong nước.

Theo phân tích, các NH ngoại đang hoạt động tại nước ta đã thu được lợi nhuận không hề nhỏ từ những giao dịch lớn như tư vấn mua bán cổ phần, thu xếp các vụ phát hành trái phiếu, bán lẻ, kinh doanh ngoại tệ, hỗ trợ các DN FDI,… do các NH nước ngoài có tiềm lực tài chính lớn và có định hướng chiến lược rõ ràng khi đến Việt Nam như đầu tư, bán lẻ, tài trợ thương mại, hỗ trợ DN FDI tại Việt Nam…

Chẳng hạn, về phát triển thị trường bán lẻ, những tên tuổi như HSBC, ANZ, CitiBank đã có vị thế lớn trên thị trường với tầm phủ sóng rất rộng, từ các siêu thị, trung tâm thương mại, siêu thị điện máy quy mô lớn đến các chuỗi cửa hàng chuyên cung cấp hàng công nghệ quy mô vừa. Còn trong phát triển thẻ, các NH này cũng cạnh tranh rất quyết liệt để phát hành thẻ với ưu đãi cao hơn so với các NH nội để khai thác tiềm năng của thị trường Việt Nam và sớm chiếm thị phần không nhỏ.

Ngoài ra, DN FDI thường vay theo chỉ định từ tập đoàn mẹ, đồng thời lãi suất cho vay từ các NH ngoại thấp hơn rất nhiều so với NH nội, do vậy, dù rất muốn nhưng các NH nội vẫn khó chen chân vào “miếng bánh béo bở” này.

Hiện đã có 7 NH 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và có hơn 50 chi nhánh, hơn 50 văn phòng đại diện của các NH nước ngoài và một số NH liên doanh trong đó nhiều ngân hàng đến từ Hàn Quốc, Thái Lan, Hồng Công, Úc, Hà Lan, Đức, Pháp,... Điều này cho thấy, dường như các tổ chức tín dụng đã sẵn sàng đón đợi cơ hội từ việc khai thác thị trường Việt Nam và các nước liên quan.

“Tái cơ cấu một số NH thương mại còn khó khăn” là một trong những nhận xét của Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc báo cáo về lĩnh vực tài chính NH trong sáng ngày 16-11 tại kỳ họp Quốc hội lần này. Phó Thủ tướng chỉ rõ, tình trạng sở hữu chéo tại các tổ chức tín dụng đã được xử lý và kiểm soát. Các tổ chức tín dụng cũng đã đẩy mạnh hoạt động mua bán sáp nhập.

Tính đến nay, thị trường đã giảm 17 tổ chức tín dụng. Nợ xấu từng bước được kiểm soát và xử lý. Tuy nhiên, quá trình tái cơ cấu một số NH thương mại còn khó khăn, còn một số hoạt động vi phạm, việc tiếp cận vốn tín dụng còn khó, năng lực quản trị và dịch vụ NH cần cải thiện trong quá trình hội nhập.

Thực tế, hiện chưa có NH nội nào đạt tiêu chuẩn đủ “tầm” khu vực. Theo chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu, để đạt NH tầm khu vực thì tổng tài sản tối thiểu 50 tỉ USD, vốn chủ sở hữu khoảng 5 tỉ USD. Tuy nhiên, ngay cả NH nội lớn nhất hiện nay là VietinBank tổng tài sản cũng mới đạt khoảng 30 tỉ USD, vốn điều lệ xấp xỉ 1,7 tỉ USD.

Do vậy, nhìn vào thực lực của hệ thống NH nội trước áp lực cạnh tranh từ NH ngoại, các chuyên gia tài chính cho rằng, sự gia nhập của các ngân hàng nước ngoài cũng đồng nghĩa với việc sẽ có một cuộc cạnh tranh khốc liệt hơn với các ngân hàng trong nước.

Bởi lẽ bên cạnh việc phục vụ nhu cầu tài chính cho hoạt động đầu tư của các DN nước ngoài, các NH nước ngoài cũng có khả năng thu hút khách hàng trong nước dựa vào uy tín thương hiệu, các công nghệ, dịch vụ hiện đại cũng như nguồn lực tài chính dồi dào. Và áp lực lên các NH nội từ nay đến thời điểm TTP có hiệu lực sẽ không hề nhỏ.

 

Thành Trung

Năng lượng Mới 477

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 84,800
AVPL/SJC HCM 82,600 84,800
AVPL/SJC ĐN 82,600 84,800
Nguyên liệu 9999 - HN 74,450 75,450
Nguyên liệu 999 - HN 74,350 75,350
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 84,800
Cập nhật: 02/05/2024 09:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.400 ▼400K 75.200 ▼400K
TPHCM - SJC 82.600 ▼400K 84.800 ▼400K
Hà Nội - PNJ 73.400 ▼400K 75.200 ▼400K
Hà Nội - SJC 82.600 ▼400K 84.800 ▼400K
Đà Nẵng - PNJ 73.400 ▼400K 75.200 ▼400K
Đà Nẵng - SJC 82.600 ▼400K 84.800 ▼400K
Miền Tây - PNJ 73.400 ▼400K 75.200 ▼400K
Miền Tây - SJC 82.500 ▼500K 84.700 ▼500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.400 ▼400K 75.200 ▼400K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.600 ▼400K 84.800 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.400 ▼400K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.600 ▼400K 84.800 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.400 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.300 ▼400K 74.100 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.330 ▼300K 55.730 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.100 ▼230K 43.500 ▼230K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.580 ▼160K 30.980 ▼160K
Cập nhật: 02/05/2024 09:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,375 ▼10K 7,580 ▼10K
Trang sức 99.9 7,365 ▼10K 7,570 ▼10K
NL 99.99 7,370 ▼10K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,350 ▼10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,440 ▼10K 7,610 ▼10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,440 ▼10K 7,610 ▼10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,440 ▼10K 7,610 ▼10K
Miếng SJC Thái Bình 8,290 ▼30K 8,510 ▼10K
Miếng SJC Nghệ An 8,290 ▼30K 8,510 ▼10K
Miếng SJC Hà Nội 8,290 ▼30K 8,510 ▼10K
Cập nhật: 02/05/2024 09:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,500 ▼500K 84,700 ▼500K
SJC 5c 82,500 ▼500K 84,720 ▼500K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,500 ▼500K 84,730 ▼500K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,500 ▼300K 75,200 ▼300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,500 ▼300K 75,300 ▼300K
Nữ Trang 99.99% 73,400 ▼300K 74,400 ▼300K
Nữ Trang 99% 71,663 ▼297K 73,663 ▼297K
Nữ Trang 68% 48,247 ▼204K 50,747 ▼204K
Nữ Trang 41.7% 28,678 ▼125K 31,178 ▼125K
Cập nhật: 02/05/2024 09:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 02/05/2024 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,282 16,382 16,832
CAD 18,208 18,308 18,858
CHF 27,185 27,290 28,090
CNY - 3,459 3,569
DKK - 3,590 3,720
EUR #26,680 26,715 27,975
GBP 31,357 31,407 32,367
HKD 3,164 3,179 3,314
JPY 159.02 159.02 166.97
KRW 16.56 17.36 20.16
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,256 2,336
NZD 14,755 14,805 15,322
SEK - 2,270 2,380
SGD 18,171 18,271 19,001
THB 631.96 676.3 699.96
USD #25,130 25,130 25,454
Cập nhật: 02/05/2024 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 02/05/2024 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 02/05/2024 09:00