Lạm phát giảm nếu dân chúng có niềm tin

07:10 | 23/05/2013

652 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Việt Nam có khả năng tránh được việc phải đánh đổi giữa tăng trưởng và ổn định nếu Chính phủ được chuẩn bị để tiến hành những cuộc cải cách lớn về cơ cấu – Bà Phạm Thị Thu Trà, chuyên viên kinh tế cao cấp của Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) nhận định.

Bà Phạm Thị Thu Trà.

Thưa bà, một nghiên cứu của USAID cho thấy Việt Nam có thể không cần phải đánh đổi giữa lạm phát và tăng trưởng để có được sự ổn định. Bà có thể giải thích rõ thêm về điều này?

Bà Phạm Thị Thu Trà: Điểm nhấn trong nghiên cứu của chúng tôi là Việt Nam có thể không phải trải qua sự trả giá giữa lạm phát và tăng trưởng, nghĩa là việt Nam có thể đạt được hai mục tiêu này. Điều then chốt để làm được điều ấy là kì vọng về lạm phát, nó đến từ niềm tin của dân chúng vào chính sách giảm lạm phát của Chính phủ.

Nếu các hộ gia đình cũng như các doanh nghiệp đều tin rằng các chính sách của Chính phủ sẽ có hiệu quả trong việc giảm lạm phát thì mục tiêu giảm lạm phát sẽ đạt được tương đối nhanh chóng và ít gây tổn thương cho nền kinh tế. Nhưng nếu họ không tin tưởng vào các chính sách này hoặc nghi ngờ Chính phủ sẽ thay đổi sang chính sách khác thì mục tiêu giảm lạm phát có thể sẽ kéo dài dai dẳng và tốn nhiều công sức, của cải. Chi phí cho việc giảm lạm phát càng cao, thời gian để đạt được nó càng dài thì Chính phủ lại càng dễ buông xuôi chính sách và các doanh nghiệp cũng như kinh tế hộ gia đình lại càng mất niềm tin rằng chính sách này sẽ thành công. Vì thế, đây là một vòng tròn luẩn quẩn.

Theo bà, những chính sách thế nào để tạo được niềm tin và kì vọng của dân chúng?

Bà Phạm Thị Thu Trà: Sự tin cậy, tín nhiệm của một chính sách giảm lạm phát không đơn thuần đến từ một vài động thái chính sách đơn giản mà đến từ niềm tin của dân chúng vào một công cuộc cải cách kinh tế sâu rộng mạnh mẽ, để người dân tin những cải cách kinh tế thực sự làm gia tăng hiệu quả nền kinh tế, khắc phục được vấn đề nội tại của nền kinh tế. Những năm gần đây Việt Nam dấy lên vấn đề tái cơ cấu kinh tế trong ba lĩnh vực đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước, tài chính.

Đó là ba lĩnh vực cần thiết nhưng chưa đủ. Tái cơ cấu toàn diện và mạnh mẽ phải là một tái cơ cấu làm sao tái phân bổ nguồn lực, tập trung nguồn lực vào những lĩnh vực Việt Nam có thể làm tốt nhất, hay nói cách khác Việt Nam có lợi thế so sánh. Ví dụ ngành công nghiệp thâm dụng nhiều lao động, phục vụ xuất khẩu. Nếu Việt Nam có thể làm được điều đó, thuyết phục được dân chúng tin vào điều đó thì Việt Nam có thể đạt được hai mục tiêu là giảm lạm phát và giữ được ổn định vĩ mô.

Vậy bà đánh giá thế nào về sự đánh đổi giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong 20 năm gần đây?

Bà Phạm Thị Thu Trà: Nếu nói toàn bộ trong 20 năm gần đây, chúng ta sẽ không rút ra được sự đánh đổi nào mà chúng ta cần phải chia nhỏ giai đoạn đó ra. Bởi vì mỗi giai đoạn Việt Nam có đặc thù riêng, ví dụ giai đoạn từ cuối những năm 80 đến những năm đầu 90 là giai đoạn đầy biến động của kinh tế Việt Nam. Giai đoạn này lạm phát đã giảm ngoạn mục, từ lạm phát phi mã 800% xuống 7-8%, đồng thời những năm ấy Việt Nam đạt được gia tăng trong tăng trưởng. Cho nên quan hệ đánh đổi giữa lạm phát và tăng trưởng không xuất hiện trong thời kì ấy.

Điều đó chứng tỏ trong thời kì ấy, chính sách giảm lạm phát đã tạo được sự tin cậy hết sức cao. Chính vì thế làm lạm phát kì vọng giảm, làm lạm phát thật cũng giảm dần đi, còn tăng trưởng lại cao hơn.

Sau thời gian Việt Nam thành công trong việc giảm lạm phát từ mức phi mã cho đến lúc lạm phát xuống 1 con số, thời gian tươi sáng nhất của Việt Nam là từ 1996-2006. Giai đoạn này lạm phát bình quân chỉ 4% trong khi tăng trưởng 7-8%. Đây là thời kì lạm phát thấp, tăng trưởng cao. Hay có thể nói đây là thời kì lạm phát kì vọng ổn định. Nhưng sóng gió ập đến từ 2007 đến nay, lạm phát tăng cao trở lại năm 2011 buộc Chính phủ ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP để ưu tiên giảm lạm phát.

Từ năm 2007 đến nay, mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng thường thấy ở đường cong Phillips, nghĩa là có sự đánh đổi giữa lạm phát và tăng trưởng. Tức là muốn lạm phát thấp hơn thì tăng trưởng thấp hơn. Nhưng có nhất thiết phải đánh đổi hay không? Việt Nam có thể đạt được hai mục tiêu vừa giảm lạm phát vừa đạt tăng trưởng cao? Câu trả lời là có. Và như trên tôi đã nói, điều này phụ thuộc vào sự tin cậy vào chính sách.

Xin cảm ơn bà!

Lương Thu Mai (ghi)

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 83,500 85,700
AVPL/SJC HCM 83,500 85,700
AVPL/SJC ĐN 83,500 85,700
Nguyên liệu 9999 - HN 73,150 74,050
Nguyên liệu 999 - HN 73,050 73,950
AVPL/SJC Cần Thơ 83,500 85,700
Cập nhật: 05/05/2024 03:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.100 74.950
TPHCM - SJC 83.500 85.900
Hà Nội - PNJ 73.100 74.950
Hà Nội - SJC 83.500 85.900
Đà Nẵng - PNJ 73.100 74.950
Đà Nẵng - SJC 83.500 85.900
Miền Tây - PNJ 73.100 74.950
Miền Tây - SJC 83.500 85.900
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.100 74.950
Giá vàng nữ trang - SJC 83.500 85.900
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.100
Giá vàng nữ trang - SJC 83.500 85.900
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.100
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.000 73.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.100 55.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.920 43.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.450 30.850
Cập nhật: 05/05/2024 03:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,285 7,490
Trang sức 99.9 7,275 7,480
NL 99.99 7,280
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,260
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,350 7,520
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,350 7,520
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,350 7,520
Miếng SJC Thái Bình 8,360 8,580
Miếng SJC Nghệ An 8,360 8,580
Miếng SJC Hà Nội 8,360 8,580
Cập nhật: 05/05/2024 03:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,500 85,900
SJC 5c 83,500 85,920
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,500 85,930
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 74,800
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 74,900
Nữ Trang 99.99% 73,000 74,000
Nữ Trang 99% 71,267 73,267
Nữ Trang 68% 47,975 50,475
Nữ Trang 41.7% 28,511 31,011
Cập nhật: 05/05/2024 03:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,354.34 16,519.54 17,049.50
CAD 18,090.38 18,273.11 18,859.33
CHF 27,341.37 27,617.55 28,503.54
CNY 3,436.06 3,470.77 3,582.65
DKK - 3,598.26 3,736.05
EUR 26,625.30 26,894.25 28,085.20
GBP 31,045.53 31,359.12 32,365.15
HKD 3,169.44 3,201.45 3,304.16
INR - 303.80 315.94
JPY 161.02 162.65 170.43
KRW 16.21 18.02 19.65
KWD - 82,506.00 85,804.46
MYR - 5,303.65 5,419.33
NOK - 2,286.73 2,383.82
RUB - 265.97 294.43
SAR - 6,753.59 7,023.59
SEK - 2,299.45 2,397.08
SGD 18,345.10 18,530.40 19,124.88
THB 611.06 678.96 704.95
USD 25,117.00 25,147.00 25,457.00
Cập nhật: 05/05/2024 03:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,456 16,476 17,076
CAD 18,235 18,245 18,945
CHF 27,506 27,526 28,476
CNY - 3,435 3,575
DKK - 3,572 3,742
EUR #26,449 26,659 27,949
GBP 31,283 31,293 32,463
HKD 3,119 3,129 3,324
JPY 161.69 161.84 171.39
KRW 16.52 16.72 20.52
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,252 2,372
NZD 14,995 15,005 15,585
SEK - 2,270 2,405
SGD 18,246 18,256 19,056
THB 637.99 677.99 705.99
USD #25,100 25,100 25,457
Cập nhật: 05/05/2024 03:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,157.00 25,457.00
EUR 26,777.00 26,885.00 28,090.00
GBP 31,177.00 31,365.00 32,350.00
HKD 3,185.00 3,198.00 3,304.00
CHF 27,495.00 27,605.00 28,476.00
JPY 161.96 162.61 170.17
AUD 16,468.00 16,534.00 17,043.00
SGD 18,463.00 18,537.00 19,095.00
THB 674.00 677.00 705.00
CAD 18,207.00 18,280.00 18,826.00
NZD 0.00 15,007.00 15,516.00
KRW 0.00 17.91 19.60
Cập nhật: 05/05/2024 03:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25170 25170 25457
AUD 16588 16638 17148
CAD 18360 18410 18865
CHF 27797 27847 28409
CNY 0 3473 0
CZK 0 1030 0
DKK 0 3640 0
EUR 27081 27131 27841
GBP 31618 31668 32331
HKD 0 3250 0
JPY 164.03 164.53 169.07
KHR 0 5.6733 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.0371 0
MYR 0 5520 0
NOK 0 2305 0
NZD 0 15068 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2320 0
SGD 18623 18673 19227
THB 0 651.5 0
TWD 0 780 0
XAU 8350000 8350000 8550000
XBJ 6500000 6500000 7280000
Cập nhật: 05/05/2024 03:00