Thị trường chứng khoán năm 2018

Lao dốc & Hồi phục

13:39 | 11/05/2018

242 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Tiếp nối đà tăng điểm trong năm 2017, chỉ số VN-Index đã tăng lên đỉnh lịch sử 1.211,34 điểm và thị trường chứng khoán (TTCK) bước vào giai đoạn điều chỉnh lớn từ tháng 4-2018 đến nay.

Vì sao thị trường giảm điểm nhanh?

Mặc dù đã có những phiên phục hồi trở lại trong đầu tháng 5, nhưng nhìn chung tốc độ giảm điểm từ vùng đỉnh lịch sử đến nay rất nhanh, nếu tính theo giá đóng cửa tại ngày 8-5-2018 là 1.060,45 điểm thì VN-Index đã giảm 12,46% so với đỉnh lịch sử.

lao doc hoi phuc
Nhiều khả năng các chỉ số chứng khoán sẽ hồi phục kể từ cuối quý III/2018

Có thể nói, nếu so sánh thời điểm đầu năm cho đến đầu tháng 5, trạng thái của thị trường và tâm lý nhà đầu tư đã thay đổi 180o dù nền kinh tế đã và đang phát đi các tín hiệu lạc quan. Hiện tượng bất thường này cũng dễ hiểu, đó cũng là đặc tính diễn biến thường xuyên trên TTCK khi chỉ báo niềm tin nhà đầu tư có thể thay đổi nhanh trong khoảng thời gian rất ngắn.

Một trong những lý do chính để có thể giải thích diễn biến giảm điểm của TTCK có thể đến từ những chính sách kinh tế thế giới cũng như của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua.

Lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ, Anh và một số nước châu Âu như Đức, Thụy Sĩ có xu hướng gia tăng và mối quan hệ ngược chiều về lợi suất trái phiếu Chính phủ, lãi suất, tỷ giá so với xu hướng của TTCK nói chung. Không phải chúng ta không nhận thức được từ đầu năm về việc các ngân hàng Trung ương thế giới đang thắt chặt các chính sách và việc tăng lãi suất chỉ là vấn đề thời gian, sẽ tác động tiêu cực đến các chỉ số chứng khoán khi động thái bán ra có thể đo lường.

Phản ứng đầu tiên và rõ nét nhất là chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones đã có những phiên giảm điểm rất mạnh gây cú sốc không nhỏ đối với các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức trong và bên ngoài nước Mỹ. Trong khi đó, VN-Index đã có tín hiệu điều chỉnh lớn sau giai đoạn tăng điểm mạnh mẽ và ấn tượng, đã báo hiệu đà tăng giá khó khăn hơn khi mất đi dòng tiền mua vào của cả khối nội và khối ngoại, thanh khoản cả thị trường đã giảm sút rõ rệt khoảng 4.200 tỉ đồng/phiên.

lao doc hoi phuc
Diễn biến VN-Index và Dow Jones từ đầu năm 2018 đến nay

Bên cạnh đó, việc tăng giá quá nhanh và mạnh của các nhóm cổ phiếu lớn (cổ phiếu blue chips) thuộc các nhóm ngành ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, xây dựng, bất động sản cuối năm 2017 và đầu năm 2018, đóng vai trò là động lực chính kéo 2 chỉ số chứng khoán VN-Index/VN30 tăng, cũng có diễn biến điều chỉnh về mặt bằng giá. Đà tăng giá các cổ phiếu lớn kèm theo tâm lý hào hứng kết hợp với hàng loạt thông tin hỗ trợ “bơm thổi” trên thị trường đã khiến thị trường rơi vào trạng thái quá mua và việc điều chỉnh “kỹ thuật” để thị trường giảm về điểm cân bằng hơn là điều dễ hiểu.

Ngoài ra, còn phải kể đến yếu tố tâm lý nhà đầu tư, đó là trạng thái “hưng phấn, cuồng nhiệt, rồi chuyển sang hoang mang, sợ hãi”, luôn gắn liền với đám đông. Nhiều cổ phiếu tăng nhanh hơn mức tăng trưởng lợi nhuận doanh nghiệp hay yếu tố đầu cơ ngắn hạn, dòng tiền nóng tham gia tạo hiệu ứng mua lan tỏa tại các cổ phiếu lớn. Hàng loạt nhà đầu tư được tư vấn hoặc tin tưởng ở các mã hàng đầu đang tăng dần, đã nhận ra việc không còn nhiều cơ hội khi các mã lớn đã hết lực tăng và bắt đầu có xu hướng điều chỉnh kéo dài. Áp lực bán tháo trở nên mạnh hơn khi VN-Index lao dốc.

Cuối cùng để giải thích hiện tượng điều chỉnh “sớm” của TTCK đó là “hiệu ứng tháng 5” và các tháng giao dịch ảm đạm sau đó. Giai đoạn điều chỉnh càng trở lên mạnh hơn khi các tháng hè đã gần kề và một số bộ phận nhà đầu tư dường như không còn mong muốn nắm giữ thêm các cổ phiếu, bất kể là danh mục cổ phiếu đó đang lãi hay lỗ - “Cash is king”.

Bao giờ thị trường hồi phục?

Ông Lê Đức Khánh, Phó giám đốc Trung tâm Phân tích Công ty CP Chứng khoán Dầu khí (PSI) phân tích: Dù bất kể lý do gì giải thích giai đoạn điều chỉnh của thị trường giai đoạn quý II/2018 thì nhiều khả năng các chỉ số chứng khoán sẽ hồi phục kể từ cuối quý III/2018 khi quay trở lại “test” vùng đỉnh cũ 1.200 điểm và bứt phá lên vùng 1.380 điểm vào cuối năm 2018. Trong ngắn hạn, quý II/2018 có thể tiếp tục xuất hiện thêm vài phiên điều chỉnh mạnh khiến VN-Index có thể giảm về các vùng hỗ trợ mạnh 975-980 điểm và với kịch bản tệ hơn, sẽ rơi tiếp về ngưỡng 940-960 điểm, nhưng TTCK vẫn chưa bị “gãy” xu hướng tăng điểm lớn.

lao doc hoi phuc
Diễn biến các chỉ số chính của thị trường chứng khoán Việt Nam từ đầu 2018 đến nay

Triển vọng TTCK năm 2018 được đánh giá khá tích cực thông qua số liệu thống kê và các chỉ báo kinh tế then chốt (GDP, FDI, dự trữ ngoại hối, lạm phát…). Tuy nhiên, TTCK cần thêm thời gian để điều chỉnh do giai đoạn cuối 2017 và đầu 2018, các nhóm cổ phiếu dẫn đầu (ngân hàng, bất động sản, chứng khoán, thực phẩm…) đã tăng quá nhanh khiến cho mặt bằng giá cổ phiếu của các nhóm ngành đó đạt mức khá cao. Bên cạnh diễn biến bán ròng của khối ngoại trong giai đoạn đầu năm, đặc biệt trong tháng 4-2018 khối ngoại bán ròng hơn 2.800 tỉ đồng, tập trung chủ yếu vào các cổ phiếu blue chips, là một trong những lý do tác động mạnh đến diễn biến giao dịch của toàn thị trường và tác động đến tâm lý giao dịch của các nhà đầu tư nội.

Áp lực bán ròng gia tăng kể từ tháng 3-2018 đến nay kèm theo lo ngại về chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc. Tính riêng quý I/2018, giá trị mua ròng của nhà đầu tư nước ngoài tăng 3 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên lực mua chỉ xuất hiện trong tháng 1 và đầu tháng 2, sau đó khối ngoại quay đầu bán ròng trở lại trong tháng 3 và mạnh nhất vào tháng 4, đầu tháng 5. Nhiều khả năng, khối ngoại chỉ có thể quay lại mua ròng kể từ quý III/2018 khi những chính sách của các ngân hàng trung ương trở nên rõ ràng hơn

Nhiều khả năng các chỉ số chứng khoán sẽ hồi phục kể từ cuối quý III/2018 khi quay trở lại “test” vùng đỉnh cũ 1.200 điểm và bứt phá lên vùng 1.380 điểm vào cuối năm 2018.

Minh Châu

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,300 ▲500K 84,500 ▲500K
AVPL/SJC HCM 82,300 ▲500K 84,500 ▲500K
AVPL/SJC ĐN 82,300 ▲500K 84,500 ▲500K
Nguyên liệu 9999 - HN 73,600 ▲350K 74,550 ▲350K
Nguyên liệu 999 - HN 73,500 ▲350K 74,450 ▲350K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,300 ▲500K 84,500 ▲500K
Cập nhật: 26/04/2024 09:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.200 ▲200K 74.950 ▲150K
TPHCM - SJC 82.300 84.300
Hà Nội - PNJ 73.200 ▲200K 74.950 ▲150K
Hà Nội - SJC 82.300 84.300
Đà Nẵng - PNJ 73.200 ▲200K 74.950 ▲150K
Đà Nẵng - SJC 82.300 84.300
Miền Tây - PNJ 73.200 ▲200K 74.950 ▲150K
Miền Tây - SJC 82.600 ▲600K 84.800 ▲500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.200 ▲200K 74.950 ▲150K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.200 ▲200K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.200 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.150 ▲250K 73.950 ▲250K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.210 ▲180K 55.610 ▲180K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.010 ▲140K 43.410 ▲140K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.510 ▲100K 30.910 ▲100K
Cập nhật: 26/04/2024 09:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,325 ▲20K 7,530 ▲20K
Trang sức 99.9 7,315 ▲20K 7,520 ▲20K
NL 99.99 7,320 ▲20K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,300 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,390 ▲20K 7,560 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,390 ▲20K 7,560 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,390 ▲20K 7,560 ▲20K
Miếng SJC Thái Bình 8,280 ▲50K 8,480 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 8,280 ▲50K 8,480 ▲50K
Miếng SJC Hà Nội 8,280 ▲50K 8,480 ▲50K
Cập nhật: 26/04/2024 09:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,600 ▲600K 84,800 ▲500K
SJC 5c 82,600 ▲600K 84,820 ▲500K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,600 ▲600K 84,830 ▲500K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,300 ▲200K 75,000 ▲200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,300 ▲200K 75,100 ▲200K
Nữ Trang 99.99% 73,100 ▲200K 74,200 ▲200K
Nữ Trang 99% 71,465 ▲198K 73,465 ▲198K
Nữ Trang 68% 48,111 ▲136K 50,611 ▲136K
Nữ Trang 41.7% 28,594 ▲83K 31,094 ▲83K
Cập nhật: 26/04/2024 09:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,112.17 16,274.92 16,797.08
CAD 18,090.44 18,273.17 18,859.45
CHF 27,072.22 27,345.68 28,223.04
CNY 3,429.67 3,464.31 3,576.00
DKK - 3,579.44 3,716.52
EUR 26,496.28 26,763.92 27,949.19
GBP 30,880.63 31,192.55 32,193.34
HKD 3,156.04 3,187.92 3,290.20
INR - 303.48 315.61
JPY 157.98 159.58 167.21
KRW 15.95 17.72 19.33
KWD - 82,209.56 85,496.44
MYR - 5,249.99 5,364.51
NOK - 2,265.53 2,361.72
RUB - 261.73 289.74
SAR - 6,740.29 7,009.77
SEK - 2,281.68 2,378.56
SGD 18,179.62 18,363.26 18,952.42
THB 605.24 672.49 698.24
USD 25,118.00 25,148.00 25,458.00
Cập nhật: 26/04/2024 09:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,300 16,400 16,850
CAD 18,311 18,411 18,961
CHF 27,302 27,407 28,207
CNY - 3,458 3,568
DKK - 3,595 3,725
EUR #26,720 26,755 28,015
GBP 31,305 31,355 32,315
HKD 3,162 3,177 3,312
JPY 159.52 159.52 167.47
KRW 16.64 17.44 20.24
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,272 2,352
NZD 14,869 14,919 15,436
SEK - 2,279 2,389
SGD 18,187 18,287 19,017
THB 631.94 676.28 699.94
USD #25,133 25,133 25,458
Cập nhật: 26/04/2024 09:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 26/04/2024 09:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25145 25145 25458
AUD 16348 16398 16903
CAD 18365 18415 18866
CHF 27510 27560 28122
CNY 0 3462.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26938 26988 27698
GBP 31441 31491 32159
HKD 0 3140 0
JPY 160.9 161.4 165.91
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0327 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14921 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19044
THB 0 645 0
TWD 0 779 0
XAU 8250000 8250000 8450000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 26/04/2024 09:45