Sự chuyển mình đầy đau đớn của các Big Oil

08:59 | 24/04/2021

878 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Các công ty dầu khí quốc tế lớn như ExxonMobil, Chevron, ConocoPhillips, Royal Dutch Shell, BP, Total, Eni và Equinor đang rao bán tài sản dầu khí truyền thống trị giá trên 110 tỷ USD, trong đó, Exxon và BP chiếm khoảng 25 tỷ USD, Shell 5 tỷ USD/mỗi năm nhằm giảm bớt gánh nặng nợ nần, mặt khác bắt kịp xu thế giảm thải carbon. Tuy nhiên, việc bán tài sản E&P tương đương 68 tỷ boe vào thời điểm này không hoàn toàn thuận lợi. Ngoài việc bán dồn dập dẫn đến mất giá tài sản, các định chế tài chính lớn trên khắp thế giới cũng đang phải chịu áp lực ngày càng gia tăng từ phía cổ đông kêu gọi giảm tỷ trọng đầu tư vào khai thác năng lượng hóa thạch.
Sự chuyển mình đầy đau đớn của các Big Oil

Nhóm nhà đầu tư tổ chức về biến đổi khí hậu (IIGCC), bao gồm Federated Hermes và Pacific Investment Management quản lý trên 11.000 tỷ USD tài sản kêu gọi các ngân hàng lớn như JPMorgan Chase, HSBC UBS tập trung vào việc đạt đến các mục tiêu Hiệp định khí hậu Paris. Thêm vào đó, không chỉ các công ty dầu khí quốc tế lớn, các công ty dầu khí quốc gia cũng mong muốn cắt giảm danh mục đầu tư không cốt lõi, điển hình là Petrobras (Brazil), có kế hoạch thoái tới 25-35 tỷ USD vốn khỏi lĩnh vực midstream và downstream. Tổng giám đốc Total nhận định, cắt giảm đầu tư vào lĩnh vực E&P trong dài hạn sẽ dẫn đến sụt giảm nguồn cung và đẩy giá dầu thô tăng, dẫn tới việc giá tài sản khai thác cũng sẽ tăng theo.

BP đang có kế hoạch tăng gấp 10 lần đầu tư vào các nguồn năng lượng carbon thấp lên khoảng 5 tỷ USD mỗi năm vào năm 2030 và muốn tăng gấp 20 lần công suất năng lượng tái tạo để tạo ra 50 gigawatt thông qua các dự án và mua lại mới.

Nhưng với khoản nợ gần 50 tỷ USD, BP về cơ bản sẽ chuyển từ một doanh nghiệp dầu mỏ sang một lĩnh vực kinh doanh khác với tỷ suất lợi nhuận thấp hơn là năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, các nhà phân tích cho rằng những thay đổi như vậy sẽ cho lợi nhuận thấp hơn.

Các chuyên gia dầu mỏ thường đặt mục tiêu lợi nhuận từ 12% đến 15% từ các khoản đầu tư của họ vào dầu. BP cho biết họ đang đặt mục tiêu thu hồi năng lượng tái tạo từ 8% đến 12%.

Năm ngoái các công ty dầu mỏ lớn. BP, Chevron, ExxonMobil, Shell và Total đã phải chịu khoản lỗ tổng cộng 77 tỷ đô la. Và giờ đây, theo báo cáo của Reuters, nhiều người đang cố gắng bán tháo “hàng chục mỏ dầu khí và nhà máy lọc dầu trị giá hơn 110 tỷ đô la để hạn chế gánh nặng nợ nần.

Thông thường, khi các công ty dầu mỏ lớn quyết định bán bớt tài sản, họ muốn thực hiện một cuộc “phá sản”. Có nghĩa là người mua mới là người không chỉ đảm nhận việc quản lý các tài sản này mà còn tất cả các chi phí ngừng hoạt động liên quan và các khoản nợ phải trả về môi trường khi tài sản kết thúc vòng đời kinh tế của chúng. Trách nhiệm thu dọn mỏ, hủy giếng sau khi kết thúc hợp đồng thường những chi phí không hề nhỏ.

Trên toàn thế giới, tổng chi phí ngừng hoạt động của các giếng dầu ngoài khơi dự kiến ​​là hơn 100 tỷ USD vào năm 2030 theo Bloomberg dựa trên ước tính của Wood Mackenzie.

Đó là một thách thức mà Exxon đã trải qua vào đầu năm nay khi công ty bán tài sản khai thác và khai thác Biển Bắc với giá hơn 1 tỷ đô la - một nửa so với những gì họ hy vọng có được. Phần lớn các chuyên gia tin rằng điều này là do chi phí ngừng hoạt động cao đi kèm với việc kế thừa những nghĩa vụ ràng buộc của dự án.

Bán tài sản khó khăn

Việc Exxon bán tài sản ở Biển Bắc của mình với giá một nửa so với yêu cầu ban đầu có thể phản ánh thực tế mới của việc bán tài sản dầu khí trong đó chi phí ngừng hoạt động làm giảm giá bán đáng kể hoặc chỉ đơn giản là giết chết thỏa thuận.

Các tài sản lâu đời như tài sản này, đã hoạt động hơn 50 năm, có giá trị rất thấp hoặc không có giá trị nếu các khoản nợ về môi trường và ngừng hoạt động được định giá đầy đủ và được tính vào giá của tài sản và các cơ quan quản lý buộc chủ sở hữu tài sản phải chịu trách nhiệm.

Đây cũng là một vấn đề lớn về dầu mỏ mà BP phải đối mặt gần đây. Năm 2020, BP đã bán một phần lớn tài sản của mình ở Alaska cho công ty tư nhân Hilcorp có trụ sở tại Texas. Tuy nhiên, không hề dễ. Các ngân hàng bao gồm cả JPMorgan không muốn cho Hilcorp vay 5,6 tỷ đô la bởi vì liên quan đến đại dịch coronavirus và nhu cầu năng lượng khiến các ngân hàng không thoải mái khi cấp tín dụng.

Cũng giống như thương vụ bán hàng ở Biển Bắc của Exxon, các khoản nợ phải trả khi ngừng hoạt động có tác động tiêu cực lớn đến giá trị tài sản trong thương vụ này, với việc người bán phải nhượng bộ tài chính rất lớn để thương vụ thành công.

Thu dọn mỏ - nghĩa vụ nặng nề

Sự chuyển mình đầy đau đớn của các Big Oil

Mặc dù các khoản nợ phải trả khi ngừng hoạt động đang ảnh hưởng lớn đến các tài sản dầu khí ngoài khơi trên khắp thế giới, điều tương tự không xảy ra đối với các tài sản trong nước ở Mỹ, nơi ngành công nghiệp này có lịch sử đơn giản là từ bỏ các dự án không còn hiệu quả kinh tế hoặc sử dụng thủ tục phá sản để từ bỏ những tài sản đó.

Theo Billion Dollar Orphans, một báo cáo năm 2020 từ tổ chức nghiên cứu Carbon Tracker có trụ sở tại London, công chúng Mỹ hiện đang phải đối mặt với một khoản phải trả có thể lên tới 280 tỷ USD cho việc dọn sạch 2,6 triệu giếng dầu và khí đốt bỏ.

CRC tuyên bố phá sản vài tháng sau đó vào tháng 7 năm 2020 vì không thể thanh toán khoản nợ 5 tỷ đô la (ban đầu được thực hiện để mua tài sản từ Occidental). Mặc dù phá sản cho phép CRC thu được phần lớn khoản nợ này khỏi sổ sách của mình, nó vẫn có gần 8.000 giếng không hoạt động trong bang với chi phí thu dọn dự kiến ​​hơn 1 tỷ USD cho những giếng đó. Công ty đã dành một phần nhỏ trong số đó để dọn dẹp bởi các quy định lỏng lẻo của nhà nước. Kết quả là, Occidental dường như đã hoàn thành một cách hiệu quả các khoản nợ môi trường trước đây bằng cách bán tài sản ở California của mình cho CRC.

Vào tháng 3, chính quyền Biden đã đề xuất phân bổ 16 tỷ đô la trong chi phí cơ sở hạ tầng của mình để bắt đầu giải quyết vấn đề giếng bị bỏ hoang trên bờ.

Đi về đâu?

Các công ty dầu khí quốc tế lớn châu Âu đang tăng đầu tư vào NLTT, chủ yếu vào điện gió và mặt trời. Trong quý I/2021, Shell, Total, Equinor và Eni đã triển khai các dự án carbon thấp trị giá 20 tỷ USD, gấp 25 lần đầu tư vào dự án dầu khí mới cùng kỳ, trong đó, 55% - năng lượng gió ngoài khơi, 25% - năng lượng gió trên bờ và mặt trời, 25% - các dự án năng lượng xanh khác. Riêng Shell có kế hoạch tập trung vào phát triển mạng lưới trạm sạc xe điện thay vì đầu tư vào công suất phát điện, hiện công ty sở hữu 60.000 trạm, dự kiến mở rộng lên 500.000 trạm vào năm 2025 và 2,5 triệu trạm vào năm 2030.

Mọi thứ còn ở phía trước.

Ngọc Linh

Tại sao hầu hết dầu được tìm thấy ở sa mạc và Bắc cực?Tại sao hầu hết dầu được tìm thấy ở sa mạc và Bắc cực?
Aramco sẽ bán cổ phần tại các mỏ dầu không chiến lượcAramco sẽ bán cổ phần tại các mỏ dầu không chiến lược
Big Oil trả giá khi đầu tư vào năng lượng tái tạo?Big Oil trả giá khi đầu tư vào năng lượng tái tạo?

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 77,500 79,500
AVPL/SJC HCM 77,500 79,500
AVPL/SJC ĐN 77,500 79,500
Nguyên liệu 9999 - HN 75,350 76,000
Nguyên liệu 999 - HN 75,150 75,900
AVPL/SJC Cần Thơ 77,500 79,500
Cập nhật: 28/07/2024 02:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 75.600 77.060
TPHCM - SJC 77.500 79.500
Hà Nội - PNJ 75.600 77.060
Hà Nội - SJC 77.500 79.500
Đà Nẵng - PNJ 75.600 77.060
Đà Nẵng - SJC 77.500 79.500
Miền Tây - PNJ 75.600 77.060
Miền Tây - SJC 77.500 79.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 75.600 77.060
Giá vàng nữ trang - SJC 77.500 79.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 75.600
Giá vàng nữ trang - SJC 77.500 79.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 75.600
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 75.500 76.300
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.980 57.380
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 43.390 44.790
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.490 31.890
Cập nhật: 28/07/2024 02:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,470 7,665
Trang sức 99.9 7,460 7,655
NL 99.99 7,475
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,475
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,575 7,705
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,575 7,705
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,575 7,705
Miếng SJC Thái Bình 7,750 7,950
Miếng SJC Nghệ An 7,750 7,950
Miếng SJC Hà Nội 7,750 7,950
Cập nhật: 28/07/2024 02:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 77,500 79,500
SJC 5c 77,500 79,520
SJC 2c, 1C, 5 phân 77,500 79,530
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 75,500 77,000
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 75,500 77,100
Nữ Trang 99.99% 75,400 76,500
Nữ Trang 99% 73,743 75,743
Nữ Trang 68% 49,675 52,175
Nữ Trang 41.7% 29,554 32,054
Cập nhật: 28/07/2024 02:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,132.13 16,295.08 16,817.95
CAD 17,843.07 18,023.30 18,601.62
CHF 27,987.90 28,270.61 29,177.73
CNY 3,426.83 3,461.44 3,573.05
DKK - 3,611.44 3,749.76
EUR 26,754.59 27,024.84 28,221.75
GBP 31,694.81 32,014.96 33,042.23
HKD 3,158.89 3,190.80 3,293.18
INR - 301.29 313.33
JPY 159.31 160.92 168.61
KRW 15.79 17.54 19.13
KWD - 82,557.40 85,858.45
MYR - 5,368.88 5,486.01
NOK - 2,247.24 2,342.66
RUB - 283.26 313.58
SAR - 6,725.37 6,994.28
SEK - 2,289.92 2,387.16
SGD 18,359.90 18,545.35 19,140.42
THB 616.88 685.43 711.68
USD 25,091.00 25,121.00 25,461.00
Cập nhật: 28/07/2024 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,140.00 25,150.00 25,450.00
EUR 26,949.00 27,057.00 28,166.00
GBP 31,878.00 32,070.00 33,039.00
HKD 3,180.00 3,193.00 3,296.00
CHF 28,182.00 28,295.00 29,180.00
JPY 160.41 161.05 168.49
AUD 16,271.00 16,336.00 16,830.00
SGD 18,500.00 18,574.00 19,121.00
THB 681.00 684.00 712.00
CAD 17,991.00 18,063.00 18,586.00
NZD 14,671.00 15,163.00
KRW 17.51 19.11
Cập nhật: 28/07/2024 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25145 25145 25461
AUD 16381 16431 16936
CAD 18107 18157 18614
CHF 28416 28466 29029
CNY 0 3453.5 0
CZK 0 1047 0
DKK 0 3636 0
EUR 27195 27245 27955
GBP 32295 32345 33005
HKD 0 3265 0
JPY 162.18 162.68 167.19
KHR 0 6.2261 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 0.965 0
MYR 0 5565 0
NOK 0 2380 0
NZD 0 14711 0
PHP 0 408 0
SEK 0 2400 0
SGD 18629 18679 19236
THB 0 660.7 0
TWD 0 780 0
XAU 7750000 7750000 7950000
XBJ 7150000 7150000 7610000
Cập nhật: 28/07/2024 02:00