Lao động nhập cư và kinh tế toàn cầu

07:00 | 19/08/2013

983 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Một trong những thể hiện rõ nét nhất là làn sóng toàn cầu hiện tượng lao động nhập cư. Người ta có thể thấy, người Việt tại Hàn Quốc, người Philippines tại Arập Xêút, người Sri Lanka tại Dubai... Lao động nhập cư trên thế giới đã gửi về nhà nhiều tỉ đôla mỗi năm, làm lu mờ tất cả các khoản trợ giúp của chính phủ. Số tiền này dù đến nhỏ giọt nhưng cũng giảm bớt nghèo khó và thúc đẩy phát triển.

Nhiều hơn mọi khoản viện trợ nước ngoài

Dân di cư bằng cách này hay cách khác đã gửi tiền về quê nhà nhiều thế kỷ qua. Nhưng mãi cho tới gần đây các nhà kinh tế học mới nhận ra tầm quan trọng của điều này. Hiện nay, số tiền gửi về nước là nguồn thu nhập lớn nhất, tăng nhanh nhất và đáng tin cậy nhất của các nước đang phát triển. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), năm 2005, các nước nghèo đã báo cáo thu 167 tỉ USD từ nguồn lao động hải ngoại, nhiều hơn mọi khoản viện trợ nước ngoài. Tính luôn cả các giao dịch không báo cáo, họ ước tính con số tổng cộng vượt mức 250 tỉ USD. Và trong báo cáo WB mới nhất (công bố ngày 24/7/2013), số tiền mà người lao động nhập cư toàn cầu gửi về quê nhà họ đã vượt hơn 500 tỉ USD!

Số tiền họ gửi về - hình thức giúp đỡ cá nhân của người nghèo tới người nghèo hơn - đã tạo cơ hội ít ỏi cho tích lũy của cải, đầu tư vào học hành, nhà cửa hay kinh doanh nhỏ và giúp một phần xã hội gia nhập tầng lớp trung lưu. Nếu trong năm 2005 có ít nhất 39 tỉ USD chảy ra khỏi nước Mỹ được dân lao động nhập cư nước ngoài chuyển về quê họ thì con số đó trong năm 2011 đã tăng lên 110,8 tỉ USD, chiếm hơn 80% tổng viện trợ toàn cầu trong năm đó. Năm 2012, nước được nhận tiền gửi nhập cư nhiều nhất là Ấn Độ với 69 tỉ USD; tiếp theo là Trung Quốc với 60 tỉ USD, Philippines 24 tỉ USD; Mexico 23 tỉ USD… Xét theo tỷ trọng GDP, nước được nhận nhiều nhất là Tajikistan (chiếm 47% GDP), Liberia (31%), Kyrgyzstan (29%), Lesotho (27%), Moldova (23%) và Nepal (22%).

Công nhân xây dựng Philippines tại Dubai

Dilip Ratha, chuyên gia kinh tế cao cấp WB, nói: “Gần một tỉ người, tức là cứ 6 người thì có 1 người có thể được nhận hỗ trợ từ hình thức này. Tỷ lệ trên vô cùng to lớn, nó còn hơn cả chúng ta nghĩ và có khả năng sẽ thay đổi”. Nhờ hàng triệu giao dịch như thế mà số lượng tiền gửi về hằng năm của Mexico tăng gấp đôi từ năm 2002, chỉ đứng thứ hai sau dầu hỏa là nguồn cung cấp tiền cho đất nước - theo chuyên đề về lao động nhập cư toàn cầu do Los Angeles Times thực hiện. Các nước đang phát triển khác cũng phụ thuộc rất nhiều vào số tiền của dân di cư. Lao động Brazil ở Nhật gửi hơn 2 tỉ USD về nhà mỗi năm, nhiều hơn mức xuất khẩu cà phê của nước nhà.

Số ngoại tệ này còn hơn mức xuất khẩu trà ở Sri Lanka và du lịch ở Morocco đem lại. Ở Jordan, Lesotho, Nicaragua, Tongo… nó cung cấp hơn 1/4 của tổng sản lượng quốc gia. Trong một số trường hợp, nền kinh tế quốc gia gần như lệ thuộc hoàn toàn vào nguồn tiền gửi lao động nhập cư bởi nó chiếm gần 1/2 GDP trong một năm, chẳng hạn Haiti năm 2008 hay Tajikistan năm 2011 (3,1 tỉ USD, chiếm gần 50% trong GDP 6,5 tỉ USD). Không giống như viện trợ nước ngoài phần lớn đi vào các thị trường nổi lớn, tiền gửi từ nước ngoài được phân chia đồng đều hơn và ổn định hơn. Ratha cho biết, nó có khuynh hướng tăng nhiều hơn vào thời điểm khó khăn lúc xảy ra suy sụp kinh tế hay thiên tai ở quê nhà của dân nhập cư, khi mà vốn tư nhân có khuynh hướng giảm xuống.

Các nước giàu cũng bắt đầu nhận thấy rằng, những công nhân nhập cư bình thường có thể giúp quê hương bớt nghèo. Từ năm 2005, Tổng thống Mỹ George W. Bush và những nhà lãnh đạo các quốc gia công nghiệp đã hưởng ứng lời kêu gọi WB về giảm chi phí chuyển tiền mặt và có phương án đầu tư tốt hơn. Số tiền gửi về nước đang thu hút sự chú ý bởi vì chẳng có gì ràng buộc nó, không giống như các khoản cho vay phát triển hay vốn tư nhân. Nó không cần thủ tục tốn kém quản lý, các công chức quan liêu cũng không thể dòm ngó được. Devesh Kapur, Giáo sư Đại học Texas, nói: “Tâm lý chung là khoản tiền gửi từ nước ngoài này có nhiều khả năng đến tay người thực sự cần chúng”. Cuộc thăm dò trong các hộ gia đình thực hiện bởi WB cho thấy, số tiền gửi về nước này đã làm giảm tỷ lệ người sống dưới mức nghèo khó ở Uganda, Bangladesh và Ghana...

Sự cần thiết của một chính sách lâu dài

Giới kinh tế học cho rằng, số tiền gửi này đem lại lợi ích không đồng đều và đôi khi phù phiếm bởi vì nhiều chính phủ không áp dụng được các nguyên tắc cơ bản phổ biến cho phát triển như: cung cấp nhiều dịch vụ công cộng, trường học và bệnh viện hơn cho các vùng nghèo, tăng cường hệ thống pháp luật để khuyến khích đầu tư cá nhân, phổ biến rộng rãi tín dụng và các dịch vụ ngân hàng. “Cho tới nay, những câu chuyện thành công về tiền gửi là của cá nhân chứ không phải của tập thể”, theo lời Manuel Orozco, nhà kinh tế học thuộc Đại học Georgetown, người từng theo dõi số tiền từ hải ngoại gửi về Mỹ Latin. “Nó có thể giúp nhiều người không lún sâu vào mức nghèo khó, nhưng nếu chính phủ không có biện pháp đúng đắn thì nó sẽ không nâng được nhiều người lên tầng lớp trung lưu”. Đã có 2 phương án xuất hiện ở Mỹ Latinh nhằm trọng tâm là xác định số thu nhập từ tiền gửi từ hải ngoại và tận dụng mọi cách để mở rộng số tiền đó. Một cách là thuyết phục người nhận tiền mở tài khoản tiết kiệm để số tiền đó được tái sử dụng vào các khoản cho doanh nghiệp nhỏ vay.

Tuy nhiên, cần nói rõ rằng, hàng triệu người làm việc ở nước ngoài góp phần giúp nước nhà sống được, chứ chưa thịnh vượng lên. Và lao động ở nước ngoài cũng lắm truân chuyên. Đó là cuộc sống của sự hy sinh đầy rủi ro và cô đơn. Họ chăm sóc người bệnh ở California, lái xe chở nhiên liệu ở Iraq, lái tàu chở hàng qua kênh Panama và đưa thuyền vượt vịnh Alaska. Họ rót rượu sake cho khách Nhật và nuôi con các doanh nhân Arập. Họ là nguồn xuất khẩu thành công nhất của Philippines. Ba thập niên trước, khi tìm kiếm tài chính và lối ra cho dân số đang tăng nhanh, Tổng thống lúc đó là Ferdinand Marcos đã khuyến khích dân Philippines đi tìm việc ở nước ngoài.

Qua thời gian, công nhân hải ngoại đã trở thành trụ cột của nền kinh tế. 9 triệu người Philippines đang làm việc ở nước ngoài. Mỗi ngày có hơn 3.100 người rời khỏi đất nước. Công nhân Philippines gửi về nước hơn 19,4 tỉ USD năm 2012, tương đương 10% tổng sản lượng quốc gia. Trên khắp thế giới, những công nhân này đã tạo được tiếng vang về tính táo bạo và chăm chỉ. Họ bao gồm cả một số người tài năng nhất của Philippines, được giáo dục tốt và biết nhiều ngôn ngữ.

Kiếm được nhiều tiền hơn tổng thống nhưng…

Rõ ràng Philippines đang “chuyên nghiệp hóa” trong thị trường lao động nhập cư. Trên đấu trường cạnh tranh này, Philippines có lợi thế là họ nói tiếng Anh. Nói chung họ được giáo dục tốt hơn công nhân từ các nước như Bangladesh, Sri Lanka hay Indonesia và họ còn có tiếng là hiền lành. Có cả một bộ máy hành chính xung quanh họ. Bộ phận quản lý việc làm ở nước ngoài của Philippines giúp tìm kiếm việc làm ở các nước khác, khuyến khích công nhân ra nước ngoài.

Tổ chức phát triển kỹ năng và giáo dục kỹ thuật như: mở các lớp đào tạo miễn phí kỹ thuật hàn, lái xe tải nặng và các kỹ năng khác. Phòng phúc lợi của công nhân ở nước ngoài đặt quan hệ ngoại giao khắp thế giới để chăm lo cho các công nhân Philippines ở nước ngoài. Những người đem hoặc gửi tiền về nước không phải trả thuế thu nhập. Chính phủ còn hỗ trợ lại công nhân thiết bị và dụng cụ giá rẻ để giúp họ mở kinh doanh nhỏ. Với mức độ khuyến khích đó, ngành công nghiệp đã phát triển để kết nối công nhân với việc làm.

Có hơn 1.500 đại diện tuyển dụng có giấy phép. Một vài chỗ cung cấp tập huấn: 6 tháng cho vũ công, 4 tháng cho thuyền viên, 2 tuần cho người giúp việc - đổi lại là một phần phí từ lương của công nhân. Hiện thời, dân Philippines làm việc ở mọi nước trừ Bắc Triều Tiên…

Với lao động nhập cư Philippines, làm đầu bếp trên tàu chở hàng có thể kiếm nhiều tiền (1.000USD/tháng), hơn lương chính thức của tổng thống. Một ca sĩ trong quán bar ở Nhật có thể kiếm nhiều hơn một thượng nghị sĩ. Nhưng các khoản phí có thể lên tới cả ngàn đôla và công việc càng tốt thì cái giá càng cao. Hơn 750.000 người giúp việc Philippines làm việc ở Kuwait, Arập Xêút và các nước Trung Đông khác, nơi họ thường bị phân biệt chủng tộc hợp pháp, bị đánh đập và bị lạm dụng tình dục. Phụ nữ thường xuyên phải sống cô lập, thậm chí bị cấm gọi điện thoại về nhà. Nếu họ nộp đơn chống lại chủ thuê, họ có thể bị trục xuất hay bỏ tù về tội vu khống.

“Họ bị đối xử như các nô lệ thời hiện đại vậy” - lời của Maita Santiago, Tổng thư ký Migrante International, nhóm đấu tranh vì quyền lợi cho công nhân Philippines. “Khi công nhân gặp tai họa, Chính phủ Philippines đã không đứng lên bênh vực quyền lợi cho họ vì sợ thị trường ngoại quốc đóng cửa đối với công nhân Philippines”. Có lẽ thị trường khó khăn nhất cho công nhân trong nước chính là Arập Xêút. Ngoài ra, còn vài mặt trái đáng chú ý.

Khi thế hệ thứ ba ra đi làm việc ở nước ngoài, rõ ràng là hệ thống này không dẫn tới sự thịnh vượng. Các nhà làm luật đã tập trung tạo điều kiện dễ dàng cho công nhân hơn là kiểm soát thu nhập của họ để phát triển kinh tế. Sự phụ thuộc vào xuất khẩu lao động đã trở thành công thức cho sự trì trệ. Một thời từng là một trong các nước mạnh nhất châu Á, nay kinh tế Philippines xếp hạng gần cuối bảng. Chính phủ đầu tư ít tiền vào sản xuất, giáo dục và chăm sóc sức khỏe.

Nền kinh tế thậm chí chẳng tạo ra nổi 1,5 triệu việc làm mỗi năm cần thiết để bắt kịp tốc độ gia tăng dân số. Người dân Philippines đã quá phụ thuộc vào số tiền từ hải ngoại đến nỗi ý nghĩ về việc không có nó thật đáng sợ. Ding Lichauco, nguyên Chánh văn phòng kế hoạch kinh tế của đất nước cho biết: “Số tiền từ nước ngoài là thứ duy nhất giữ cho nền kinh tế vận động...”.

Theo báo cáo mới nhất của Liên Hiệp Quốc, hiện có hơn 215 triệu người không sống ở nước nơi họ sinh ra; và hơn 700 triệu người di cư ngay trong nước họ. Thực tế này cho thấy, chính phủ các nước cần phải có chính sách thích ứng đối với hiện tượng di dân đang diễn ra toàn cầu, với những ảnh hưởng ngày càng thấy rõ ở kinh tế lẫn xã hội. Dự báo dòng tiền gửi từ lao động nhập cư sẽ tăng đến 608 tỉ USD năm 2014…


Mạnh Kim