Lạm phát thấp nhất 14 năm: Đừng mừng sớm

07:00 | 05/07/2015

961 lượt xem
|
Ngay giữa lúc tăng trưởng cao hơn cả mục tiêu và lạm phát thấp không thể ngờ, nhiều chuyên gia kinh tế vẫn cảnh báo tránh lạc quan sớm. Thậm chí, có dự báo cho rằng, nếu tăng trưởng kinh tế chỉ loanh quanh 6-6,25% thì kinh tế Việt Nam có nguy cơ rơi vào giảm phát.

Xác suất giảm phát lớn

Tại hội thảo Nhìn lại diễn biến thị trường và giá cả 6 tháng đầu năm do Viện Kinh tế - tài chính tổ chức mới đây, có nhiều luồng ý kiến trái chiều về câu chuyện lạm phát thấp.

Ông Nguyễn Đức Độ, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế - tài chính, cho rằng, các chỉ số CPI tháng 6 vừa công bố là mức tăng thấp nhất kể từ năm 2001 đến nay, tức là tới 14 năm. Nền kinh tế hiện đang ở tương đối gần mức lạm phát 0%, nhưng đồng thời, lại rất xa mức lạm phát mục tiêu là 5%.

Với 5 kịch bản về tương quan giữa tăng trưởng GDP và lạm phát do Viện này vừa nghiên cứu, ông Độ bày tỏ, nguy cơ nền kinh tế Việt Nam rơi vào giảm phát quay trở lại lớn hơn nhiều so với nguy cơ lạm phát cao.

Ông cho biết, giai đoạn 3 năm tới, 2015-2018, nếu tỷ giá điều chỉnh bình quân 2% mỗi năm, GDP bình quân nếu chỉ tăng 6%, lạm phát bình quân của Việt Nam sẽ ở con số âm 0,93%.

Nếu GDP bình quân giai đoạn này ở mức 6,25%, lạm phát chỉ nhích lên 0,37%. Nhưng nếu GDP tăng 6,5%, lạm phát sẽ tăng cao hơn 1%, dừng ở con số 1,68%.

Việt Nam đang trong vòng “luẩn quẩn” giữa lạm phát và tăng trưởng

Việt Nam đang trong vòng “luẩn quẩn” giữa lạm phát và tăng trưởng

Thực trạng kinh tế Việt Nam hơn hai thập kỷ qua cho thấy, lạm phát và tăng trưởng có quan hệ tỷ lệ nghịch. Và “cái giá phải trả” cho việc ưu tiên kiềm chế lạm phát trong vài năm gần đây không hề nhỏ. Làm sao để giải quyết hài hòa mối quan hệ này vẫn là một bài toán đau đầu với các nhà chính sách.

Ở hai kịch bản tiếp theo, GDP đạt từ 6,75% trở lên thì lạm phát là 2,99%. Tăng cao hơn nữ, GDP bình quân 3 năm tới đạt 7% thì lạm phát bình quân sẽ chỉ tăng cao nhất là 4,3%.

"Để nền kinh tế tránh xa vùng giảm phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế cần phải cao hơn 6,5%. Nếu GDP chỉ ở mức 6-6,25%, xác suất nền kinh tế rơi vào tình trạng giảm phát là rất lớn", ông Độ đánh giá.

Theo ông, đó có lẽ cũng là lý do chính mà Chính phủ đã đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016-2020 phải là từ 6,5-7%.

Nhìn nhận về lạm phát thấp hiện nay, ông Độ khẳng định, đó là động thái từ phía tổng cầu yếu hơn tổng cung.

Theo ông Độ, tháng 12/2014, khi lạm phát chỉ còn 1,84% so với cùng kỳ năm trước, vấn đề này đã được đặt ra và người ta giải thích rằng, nguyên nhân chính là do giá dầu giảm mạnh. Tuy nhiên, giải thích này đến nay không còn thuyết phục. Mặt bằng giá xăng dầu trên thế giới và trong nước giữa tháng 6 năm nay đã ở mức ngang với thời điểm giữa tháng 12/2014.

Nếu tính trung bình 6 tháng qua, tác động của giá xăng dầu đến CPI là không lớn. Trong khi đó, CPI còn chịu tác động của tăng giá điện, tỷ giá, và giá dịch vụ y tế. Trong đó, tỷ giá tăng 2% đã đẩy CPI tăng thêm 0,6%, giá điện tăng 8,42% đẩy CPI tăng thêm 0,22%.

"Các yếu tố chi phí đẩy này đã có tác động kéo lạm phát gia tăng nên việc lạm phát thấp hiện nay chỉ có thể là do tổng cầu", ông Độ nói.

Giá vẫn cao

Thế nhưng, trái ngược với nhận định của TS. Nguyễn Đức Độ, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương, TS Trần Kim Chung, lại có cái nhìn lạc quan hơn.

Ông chia sẻ: "Cách đây 10 năm, năm 2005, cũng ở hội trường này, chúng ta còn tranh cãi lạm phát là 23% hay 17-18%, nhưng cuối cùng, khi Tổng cục Thống kê thay đổi cách tính thì lạm phát giảm từ 23% xuống 16,8%. Còn ở thời điểm này, dường như, chúng ta có thể yên tâm không phải đối mặt với lạm phát.

Trong bối cảnh mọi thứ không đổi mà nền kinh tế vẫn tăng trưởng hơn 6,28%, lạm phát thấp kỷ lục, là chỉ số rất tốt. GDP trên 6% và lạm phát dưới 2% thì không có vấn đề gì hết", ông Chung đánh giá.

Thậm chí, TS Chung tin rằng, kể cả khi không cần tác động nhiều từ chính sách vĩ mô, tình hình kinh tế vẫn giữ được đà như hiện nay GDP có thể tăng 6,5-7% là có thể. Nền kinh tế đã thoát đáy và khởi đầu một chu kỳ tăng trưởng mới.

Theo ông Chung, vấn đề còn lại là làm sao, nền kinh tế tiêu hoá được luồng vốn đầu tư tới đây có thể tăng mạnh sau khi hàng loạt thủ tục phiền hà trong kinh doanh được tháo gỡ kể từ 1/7. Làm sao để doanh nghiệp đầu tư làm ăn tốt, vì có đầu tư mới tạo ra tăng trưởng.

Trước đó, bà Đỗ Thị Ngọc, Phó Vụ trưởng Vụ Thống kê Giá của Tổng cục Thống kê, đã khẳng định, lạm phát thấp không phải do tổng cầu yếu, mà do người dân đã biết tiết kiệm chi tiêu, thông minh hơn trong tiêu dùng. Cùng đó, lạm phát thấp là do nhiều mặt hàng giảm giá theo xu hướng giá thế giới và chính sách điều hành kinh tế vĩ mô phù hợp của các bộ ngành, nên đã dẫn đến sự ổn định giá ở nhiều mặt hàng.

Ông Nguyễn Bích Lâm, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, cũng cho rằng, chưa đặt vấn đề giảm phát ở đây.

Tuy nhiên, đồng tình với các nghiên cứu của TS. Nguyễn Đức Độ, Chủ tịch Hiệp hội siêu thị Hà Nội Vũ Vinh Phú cũng nói: "CPI thấp nhưng vẫn không thể yên tâm được."

"Giá cả vẫn còn cao quá. CPI thấp chẳng qua là do giá cao rồi, không lên được nữa nên tốc độ giá mới đứng lại", ông Phú bình luận.

"Giá cao nên vào chợ thì vắng hoe, siêu thị cũng không đông, hàng hoá bán chậm. Nguyên nhân ở đây còn có trách nhiệm ở khâu bán lẻ, phân phối. Các khâu trung gian này thường đẩy giá lên tới 3-4 lần", ông Phú nói và nhấn mạnh, đừng lạc quan sớm khi CPI thấp.

Chủ trì cuộc hội thảo này, ông Độ cho rằng, để xử lý câu chuyện lạm phát thì cần tìm mọi giải pháp đẩy tăng trưởng cao hơn 6,5%. Điều kiện tiên quyết là ngân hàng sẽ cần phải giảm lãi suất cho vay ít nhất từ 1-1,5 điểm phần trăm trong năm nay, như mục tiêu Chính phủ đã quyết.

(Theo Vietnamnet)

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 119,500 ▲900K 121,000 ▲400K
AVPL/SJC HCM 119,500 ▲900K 121,000 ▲400K
AVPL/SJC ĐN 119,500 ▲900K 121,000 ▲400K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,860 10,940
Nguyên liệu 999 - HN 10,850 10,930
Cập nhật: 18/07/2025 17:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.700 117.600
TPHCM - SJC 119.500 ▲900K 121.000 ▲400K
Hà Nội - PNJ 114.700 117.600
Hà Nội - SJC 119.500 ▲900K 121.000 ▲400K
Đà Nẵng - PNJ 114.700 117.600
Đà Nẵng - SJC 119.500 ▲900K 121.000 ▲400K
Miền Tây - PNJ 114.700 117.600
Miền Tây - SJC 119.500 ▲900K 121.000 ▲400K
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.700 117.600
Giá vàng nữ trang - SJC 119.500 ▲900K 121.000 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.700
Giá vàng nữ trang - SJC 119.500 ▲900K 121.000 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.700
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.700 117.600
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.700 117.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.200 116.700
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 114.080 116.580
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.370 115.870
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 113.130 115.630
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.180 87.680
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.920 68.420
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.200 48.700
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.500 107.000
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.840 71.340
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.510 76.010
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 72.010 79.510
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.410 43.910
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.160 38.660
Cập nhật: 18/07/2025 17:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,260 11,710
Trang sức 99.9 11,250 11,700
NL 99.99 10,787 ▼3K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,787 ▼3K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,470 11,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,470 11,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,470 11,770
Miếng SJC Thái Bình 11,950 ▲90K 12,100 ▲40K
Miếng SJC Nghệ An 11,950 ▲90K 12,100 ▲40K
Miếng SJC Hà Nội 11,950 ▲90K 12,100 ▲40K
Cập nhật: 18/07/2025 17:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16522 16790 17369
CAD 18520 18797 19414
CHF 31957 32338 32990
CNY 0 3570 3690
EUR 29810 30083 31109
GBP 34341 34732 35675
HKD 0 3201 3403
JPY 169 173 179
KRW 0 17 19
NZD 0 15294 15882
SGD 19827 20109 20635
THB 723 786 840
USD (1,2) 25887 0 0
USD (5,10,20) 25927 0 0
USD (50,100) 25956 25990 26331
Cập nhật: 18/07/2025 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,980 25,980 26,340
USD(1-2-5) 24,941 - -
USD(10-20) 24,941 - -
GBP 34,667 34,761 35,645
HKD 3,274 3,284 3,383
CHF 32,186 32,286 33,081
JPY 172.67 172.98 180.32
THB 768.92 778.42 833.29
AUD 16,736 16,797 17,268
CAD 18,727 18,787 19,325
SGD 19,976 20,038 20,707
SEK - 2,646 2,738
LAK - 0.93 1.29
DKK - 4,004 4,142
NOK - 2,505 2,592
CNY - 3,595 3,693
RUB - - -
NZD 15,239 15,381 15,824
KRW 17.35 18.09 19.53
EUR 29,961 29,985 31,192
TWD 803.24 - 972.4
MYR 5,759.86 - 6,495.46
SAR - 6,857.39 7,217.18
KWD - 83,311 88,574
XAU - - -
Cập nhật: 18/07/2025 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,970 25,980 26,320
EUR 29,802 29,922 31,046
GBP 34,501 34,640 35,628
HKD 3,266 3,279 3,385
CHF 31,986 32,114 33,032
JPY 172.16 172.85 180.15
AUD 16,682 16,749 17,290
SGD 20,010 20,090 20,637
THB 784 787 823
CAD 18,705 18,780 19,305
NZD 15,320 15,826
KRW 18.04 19.79
Cập nhật: 18/07/2025 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25975 25975 26335
AUD 16698 16798 17366
CAD 18704 18804 19355
CHF 32180 32210 33096
CNY 0 3608.5 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4120 0
EUR 30076 30176 30951
GBP 34650 34700 35810
HKD 0 3330 0
JPY 172.37 173.37 179.88
KHR 0 6.267 0
KRW 0 18.6 0
LAK 0 1.155 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2590 0
NZD 0 15400 0
PHP 0 438 0
SEK 0 2750 0
SGD 19985 20115 20845
THB 0 752.4 0
TWD 0 900 0
XAU 11600000 11600000 12080000
XBJ 10500000 10500000 12080000
Cập nhật: 18/07/2025 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,982 26,032 26,275
USD20 25,982 26,032 26,275
USD1 25,982 26,032 26,275
AUD 16,714 16,864 17,368
EUR 30,099 30,249 31,413
CAD 18,631 18,731 20,042
SGD 20,057 20,207 20,677
JPY 172.72 174.22 178.84
GBP 34,725 34,875 35,641
XAU 11,858,000 0 12,062,000
CNY 0 3,493 0
THB 0 787 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 18/07/2025 17:45