Hài hòa và linh hoạt trong chính sách điều hành nợ công quốc gia

08:09 | 27/09/2023

62 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Việt Nam cần duy trì hài hòa chính sách phát hành trái phiếu và cơ chế giới hạn nợ linh hoạt nhằm điều tiết nhu cầu quốc gia trước những biến động tình hình kinh tế - chính trị toàn cầu.

Trong giai đoạn cuối thế kỉ 20 đến nay, nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đã rơi vào khủng hoảng nợ công. Tiêu biểu như Mexico (1982), Nga (1918 và 1998), Ecuador (2008 và 2020), Hy Lạp (2015), Venezuela (2017 và 2018), Lebanon (2020), Argentina (2020), Belize (2020), Zambia (2020),…

Nhiều câu hỏi đặt ra: Đã đến lúc mang trở lại kế hoạch Brady cho kỷ nguyên trái chủ? Ảnh: Reuters
Nhiều câu hỏi đặt ra: Đã đến lúc mang trở lại kế hoạch Brady cho kỷ nguyên trái chủ? Ảnh: Reuters

Hiện nay, trước biến động không ngừng của nền kinh tế và sự khó lường của tình hình chính trị, nhiều quốc gia đang đứng trước tình trạng “báo động đỏ” về nợ công. Ngày 17/07 vừa qua, theo thông tin báo cáo trong cuộc họp G20 tại tỉnh Gandhinagar, bang Gujarat, Ấn Độ, nợ công của hơn 50 quốc gia trên thế giới đang cận kề ngưỡng cảnh báo.

Để giảm thiểu rủi ro đối với nợ công quốc gia và những ảnh hưởng từ hiệu ứng tiêu cực có thể xảy ra, hầu hết các quốc gia đều triển khai các công cụ tài chính nhằm đảm bảo cơ cấu nợ công hợp lý. Trong đó, 2 biện pháp giúp điều hành nợ công quốc gia đã và đang được áp dụng tại nhiều quốc gia, đó là phát hành trái phiếu và xây dựng cơ chế quản lý nợ.

Trái phiếu Brady

Nhìn lại lịch sử, thương vụ phát hành trái phiếu Brady, đó được xem là một trong những lối thoát cho nợ công quốc gia ở phạm vi toàn cầu.

Phát hành trái phiếu Brady (1989) để phòng tránh khủng hoảng nợ công được Bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ Nicholas Frederick Brady đưa ra trong hoàn cảnh nhiều quốc gia đã không còn khả năng chi trả các khoản vay, hầu hết là các nước Mỹ Latinh. Trái phiếu Brady sau đó đã được phát hành cho các ngân hàng thương mại là chủ nợ tại nhiều quốc gia.

Kế hoạch Brady dựa trên 3 nguyên tắc có tính ràng buộc. Một là, các chủ nợ (chủ yếu là các ngân hàng thương mại) sẽ cấp giảm nợ để đổi lấy sự đảm bảo cao hơn về khả năng thu lại các khoản cho vay, dưới hình thức trái phiếu hoặc trái phiếu chiết khấu (đối với phần nợ gốc) và thế chấp chứng khoán (đối với phần lợi tức). Hai là, các khoản trái phiếu phải có tính giao dịch trên thị trường. Ba là, việc xóa nợ cần sự cam kết, đảm bảo trong việc cải cách nền kinh tế quốc gia.

Căn cứ theo các nguyên tắc, kế hoạch Brady đưa ra hai lựa chọn cho chủ nợ: trao đổi các khoản vay lấy trái phiếu hoặc trái phiếu chiết khấu. Trong đó, trái phiếu là kết quả của việc trao đổi các khoản vay lấy trái phiếu có mệnh giá bằng nhau, với lãi suất cố định, thấp hơn thị trường, cho phép giảm dịch vụ nợ dài hạn bằng các điều khoản lãi suất ưu đãi. Còn trái phiếu chiết khấu là kết quả của việc trao đổi các khoản vay lấy một lượng trái phiếu có mệnh giá thấp hơn (thường là chiết khấu 30-50%), cho phép giảm nợ ngay lập tức, với lãi suất thả nổi dựa trên thị trường. Tiền gốc của cả trái phiếu theo mệnh giá và trái phiếu chiết khấu được đảm bảo khi đáo hạn cuối cùng bằng một cam kết.

Nhìn chung, trái phiếu Brady đã thành công trong việc xử lý nợ quốc gia. Thứ nhất, trái phiếu Brady cho phép bên vay và bên cho vay đi đến đàm phán và thống nhất việc cắt giảm đáng kể mức nợ tổng thể. Thứ hai, trái phiếu Brady giúp đa dạng hóa rủi ro danh mục đầu tư của các ngân hàng thương mại quốc tế trên thị trường đầu tư tài chính. Thứ ba, trái phiếu Brady khuyến khích nhiều thị trường mới nổi áp dụng các chương trình cải cách kinh tế, cho phép các thị trường mới nổi quốc gia lấy lại quyền tiếp cận với thị trường vốn quốc tế.

Cơ chế quản lý nợ

Để điều hành nợ công, một số quốc gia trên thế giới đã xây dựng cơ chế quản lý nợ, tiêu biểu là chính sách giới hạn nợ của Mỹ, EU và khung quy định quản lý nợ của Nhật Bản. Chính sách giới hạn nợ phân làm 3 nhóm: (1) Giới hạn nợ danh nghĩa, (2) giới hạn nợ tính theo phần trăm GDP và (3) không giới hạn nợ.

Đối với nhóm quốc gia thiết lập cơ chế giới hạn nợ danh nghĩa nhằm ngăn chặn giới hạn nợ ràng buộc trước khi đạt đến giới hạn, mà đại diện là Mỹ.

Tại Mỹ, điều khoản nợ công của Tu chính án thứ 14 quy định rằng tất cả các nghĩa vụ tài chính của chính phủ phải được đáp ứng. Giới hạn nợ (hạn mức nợ hay trần nợ) là tổng số tiền mà chính phủ Mỹ được phép vay để đáp ứng các nghĩa vụ pháp lý hiện có của quốc gia, bao gồm phúc lợi an sinh xã hội và bảo hiểm y tế (Medicare), lương quân nhân, lãi suất nợ quốc gia, hoàn thuế và các khoản thanh toán khác. Hay nói cách khác, trần nợ là giới hạn pháp lý về số nợ quốc gia mà Quốc hội cho phép Bộ tài chính gánh chịu. Tính từ năm 1960 đến nay, giới hạn này đã được dỡ bỏ tổng cộng 78 lần dưới các đời tổng thống Mỹ. Kể từ năm 1985 đến nay, Quốc hội Mỹ đã sửa đổi, ban hành 13 Đạo luật liên quan đến chính sách giới hạn nợ.

Về mặt cơ chế chính sách, giới hạn nợ đặt ra một ràng buộc theo luật định đối với số tiền mà kho bạc trực thuộc Bộ Tài chính có thể vay để tài trợ cho các hoạt động của liên bang. Khi mức nợ đạt đến giới hạn nợ theo luật định, Quốc hội có thể chọn giữ nguyên giới hạn nợ, hoặc tăng giới hạn nợ để cho phép liên bang vay thêm, hoặc tạm dừng/bãi bỏ hạn mức nợ. Trong trường hợp đạt đến ngưỡng giới hạn nợ, Bộ Tài chính sẽ có những động thái, thực hiện thông qua “các biện pháp đặc biệt” như: sử dụng các công cụ kế toán với mục tiêu trì hoãn khi khoản nợ đạt đến giới hạn theo luật định. Vào tháng 02/2023, giới hạn nợ của Mỹ đạt mức 31,5 nghìn tỷ đô la, trong đó 24,6 nghìn tỷ đô la do công chúng nắm giữ và 6,9 nghìn tỷ đô la nợ trong chính phủ. Quốc hội Mỹ gần như bị rơi vào thế buộc phải tăng giới hạn nợ.

Đối với nhóm quốc gia giới hạn nợ tính theo phần trăm GDP, nhiều quốc gia thiết lập tỷ lệ giới hạn nợ riêng biệt với mục tiêu kiểm soát lượng tiền vay của chính quyền trung ương để tài trợ cho các nghĩa vụ pháp lý hiện hành như: Kenya, Pakistan, Malaysia, Namibia, Liên minh châu Âu (EU). Trong khối EU, Ba Lan, Đan Mạch là những quốc gia đã xây dựng hẳn luật riêng trong nước về giới hạn nợ. Theo quy định trong Hiệp ước tăng trưởng và ổn định EU 1992 tại EU, nợ của một quốc gia thành viên không được vượt quá 60% GDP.

Đối với nhóm quốc gia không giới hạn nợ, đơn cử tại châu Á như: Trung Quốc, Indonesia, Ấn Độ và Nhật Bản. Tại Nhật Bản, chính phủ Nhật Bản xây dựng khung quy định xoay quanh bốn vấn đề pháp lý được thiết lập liên quan đến quản lý nợ, bao gồm: (1) phân định thẩm quyền phát hành trái phiếu chính phủ; (2) làm rõ mối quan hệ giữa chính sách quản lý nợ và các chính sách liên quan khác, đặc biệt là chính sách tiền tệ; (3) thẩm quyền và tổ chức của tổ chức quản lý nợ và (4) tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của chính sách quản lý nợ.

Quản lý nợ công
Quản lý nợ công/GDP đang đặt ra nhiều thách thức với các chính phủ. Ảnh minh họa

Một số kiến nghị

Một là, duy trì hài hòa chính sách phát hành trái phiếu. Năm 1996, Việt Nam thống nhất xử lý khoản nợ thương mại quốc gia dưới 4 hình thức hoàn trả ngay, giảm nợ, mua lại nợ và chứng khoán hóa với tổng giá trị ước tính khoảng 797,1 triệu USD, cụ thể: 310,9 triệu USD nợ gốc và 486,2 triệu USD tiền lãi quá hạn. Trong đó, 585,3 triệu Đô la Mỹ được chứng khoán hóa bằng việc phát hành trái phiếu Brady vào năm 1998, kỳ hạn 18 năm với phần lợi tức và 30 năm đối với phần nợ gốc. Tính đến cuối năm 2022, mức nợ công dự tính khoảng 43-44% GDP.

Hai là, linh hoạt trong cơ chế giới hạn nợ trước tình hình biến động kinh tế - chính trị toàn cầu. Báo cáo của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) tháng 04/2023 cho thấy xu hướng chuyển từ giới hạn nợ danh nghĩa sang giới hạn nợ tính theo phần trăm GDP đang diễn ra ở nhiều nước. Việt Nam là quốc gia có chính sách giới hạn nợ tính theo phần trăm GDP với kế hoạch con số về mức trần nợ công mà chính phủ Việt Nam muốn giữ đến năm 2030 là không quá 60% GDP.

Theo Diễn đàn Doanh nghiệp

Nợ công của Việt Nam có xu hướng giảmNợ công của Việt Nam có xu hướng giảm
Năm 2023, tổng trả nợ của Chính phủ khoảng 327.287 tỷ đồngNăm 2023, tổng trả nợ của Chính phủ khoảng 327.287 tỷ đồng

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 112,000 114,000
AVPL/SJC HCM 112,000 114,000
AVPL/SJC ĐN 112,000 114,000
Nguyên liệu 9999 - HN 10,930 11,260
Nguyên liệu 999 - HN 10,920 11,250
Cập nhật: 20/04/2025 12:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 109.500 113.500
TPHCM - SJC 112.000 114.000
Hà Nội - PNJ 109.500 113.500
Hà Nội - SJC 112.000 114.000
Đà Nẵng - PNJ 109.500 113.500
Đà Nẵng - SJC 112.000 114.000
Miền Tây - PNJ 109.500 113.500
Miền Tây - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 109.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 109.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 109.500 112.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 109.390 111.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 108.700 111.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 108.480 110.980
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 76.650 84.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.170 65.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.240 46.740
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 100.190 102.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 60.970 68.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 65.450 72.950
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 68.810 76.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 34.650 42.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.610 37.110
Cập nhật: 20/04/2025 12:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,770 11,340
Trang sức 99.9 10,760 11,330
NL 99.99 10,770
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,000 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,000 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,000 11,350
Miếng SJC Thái Bình 11,200 11,400
Miếng SJC Nghệ An 11,200 11,400
Miếng SJC Hà Nội 11,200 11,400
Cập nhật: 20/04/2025 12:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16018 16284 16866
CAD 18204 18480 19104
CHF 31144 31522 32174
CNY 0 3358 3600
EUR 28927 29196 30243
GBP 33694 34083 35039
HKD 0 3212 3416
JPY 175 179 186
KRW 0 0 18
NZD 0 15095 15686
SGD 19247 19526 20065
THB 691 754 810
USD (1,2) 25685 0 0
USD (5,10,20) 25723 0 0
USD (50,100) 25751 25785 26140
Cập nhật: 20/04/2025 12:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 33,968 34,060 34,982
HKD 3,282 3,292 3,392
CHF 31,194 31,291 32,163
JPY 178.5 178.82 186.81
THB 740.07 749.21 801.6
AUD 16,287 16,346 16,793
CAD 18,454 18,514 19,017
SGD 19,426 19,486 20,104
SEK - 2,648 2,742
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,883 4,018
NOK - 2,432 2,519
CNY - 3,514 3,610
RUB - - -
NZD 15,047 15,187 15,633
KRW 16.91 - 18.95
EUR 29,038 29,061 30,301
TWD 718.5 - 869.45
MYR 5,495.06 - 6,198.75
SAR - 6,797.15 7,154.99
KWD - 82,344 87,585
XAU - - -
Cập nhật: 20/04/2025 12:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,913 29,029 30,117
GBP 33,782 33,918 34,888
HKD 3,273 3,286 3,393
CHF 31,098 31,223 32,134
JPY 177.71 178.42 185.88
AUD 16,208 16,273 16,801
SGD 19,422 19,500 20,031
THB 757 760 794
CAD 18,383 18,457 18,972
NZD 15,207 15,715
KRW 17.45 19.24
Cập nhật: 20/04/2025 12:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25765 25765 26125
AUD 16180 16280 16853
CAD 18365 18465 19022
CHF 31279 31309 32190
CNY 0 3517.1 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29044 29144 30017
GBP 33926 33976 35087
HKD 0 3320 0
JPY 179.2 179.7 186.25
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15188 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19385 19515 20248
THB 0 720.6 0
TWD 0 770 0
XAU 11700000 11700000 12000000
XBJ 11200000 11200000 12000000
Cập nhật: 20/04/2025 12:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,120
USD20 25,770 25,820 26,120
USD1 25,770 25,820 26,120
AUD 16,219 16,369 17,463
EUR 29,191 29,341 30,553
CAD 18,317 18,417 19,760
SGD 19,461 19,611 20,111
JPY 179.16 180.66 185.56
GBP 34,025 34,175 35,054
XAU 11,698,000 0 12,002,000
CNY 0 3,401 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/04/2025 12:45