Giảm lãi suất và mục tiêu tự do hóa lãi suất

11:07 | 08/01/2013

1,255 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) - Trong nhiều năm liên tục, đồ thị lãi suất ở nước ta là đường thẳng, nghĩa là lãi suất ở kỳ hạn ngắn và dài đều như sau. Điều này trái ngược với “quy luật hợp lý” của đường cong lãi suất, tức là kỳ hạn càng dài, lãi suất càng cao và ngược lại. Việc lãi suất bị “bẻ thẳng” trong một thời gian dài cũng có nhiều hệ lụy và tác động không nhỏ lên nền kinh tế nước ta.

Giảm lãi suất và các biện pháp hành chính

Lần thứ năm liên tiếp trong năm 2012, kể từ ngày 24/12/2012, trần lãi suất huy động được điều chỉnh giảm về mức 8%/năm, gần ngang bằng với mức lãi suất năm 2007 - là thời điểm trước khi xảy ra khủng hoảng và suy thoái toàn cầu. Nhìn nhận khách quan thì đây là một chủ trương đúng và hợp lý. Bởi giảm lãi suất sẽ giúp doanh nghiệp bớt một phần khó khăn về chi phí vốn, đồng thời mức giảm 1% sẽ tiếp tục củng cố niềm tin cho người dân về kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, theo nhận định thì sử dụng biện pháp áp chế hạ lãi suất còn nhiều tác động trái chiều đối với nền kinh tế.

Ngay sau khi quyết định của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có hiệu lực, gần như ngay lập tức các ngân hàng (NH) đều niêm yết lãi suất huy động có kỳ hạn từ 1 đến 12 tháng là 8%/năm. Ở các kỳ hạn trên 12 tháng, lãi suất dao động ở mức 10-12%/năm. “Đường thẳng lãi suất” lại tiếp tục hình thành. Nhận định về hiện tượng này, một số chuyên gia kinh tế cho rằng, rất khó hình thành “đường cong lãi suất” nếu như chúng ta tiếp tục quản lý lãi suất bằng biện pháp hành chính. Mặc dù vậy, với việc NHNN cho các ngân hàng thương mại (NHTM) được áp lãi suất thỏa thuận với các kỳ hạn từ 12 tháng trở lên, nhiều ý kiến cho rằng, đây mới chỉ là bước đệm cần thiết để tiến tới tự do hóa lãi suất hoàn toàn.

Nhiều ngân hàng duy trì đường cong lãi suất bằng "đường thẳng"

Duy trì một “đường thẳng lãi suất” sẽ làm cơ cấu tiền gửi của các NH nghiêng về kỳ hạn ngắn. Với biểu lãi suất như hiện nay, người có ý định gửi tiền sẽ không chọn kỳ hạn dài, trừ khi có thêm khuyến mãi. Do đó, hoặc là NH chỉ huy động được tiền gửi kỳ hạn ngắn mà rất khó huy động dài hạn do thiếu linh hoạt và chênh lệch lãi suất không thực sự hấp dẫn với người gửi tiền. Hiện tại, cho dù nhiều NH yếu kém đã được NHNN xử lý thông qua hợp nhất, sáp nhập, tuy nhiên, động thái NHNN tiếp tục bơm ròng gần 14.000 tỉ đồng trên thị trường OMO để hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM ngày 28/12/2012 cho thấy còn khá nhiều NHTM gặp vấn đề trong thanh khoản. Do áp trần lãi suất huy động, vì vậy, để cạnh tranh hút vốn buộc các NHTM có vấn đề thanh khoản vẫn phải huy động kỳ hạn ngắn kịch trần trong khi các NH lớn cũng phải chạy theo xu hướng thị trường nếu không muốn khách hàng của mình rút tiền đi gửi tại NH khác.

Mặt khác, với đường cong lãi suất lệch chuẩn như hiện nay khiến cho vấn đề thanh khoản của các NH càng dễ rơi vào trạng thái nguy hiểm, bởi nếu đa số vốn huy động đều nằm ở kỳ hạn ngắn, trong khi cho vay thường nằm ở trung và dài hạn sẽ khiến NH đối mặt với rủi ro thanh khoản. Vì vậy, các NH cần hết sức lưu ý cân đối kỳ hạn và lãi suất để tránh rủi ro thanh khoản có thể gặp phải, đặc biệt các NH nhỏ có sức cạnh tranh yếu.

Chính vì NH thiếu nguồn vốn trung dài hạn để cung cấp cho nền kinh tế, hệ lụy của tình trạng này là doanh nghiệp khó tiếp cận các nguồn vốn trung dài hạn - nguồn tài trợ quan trọng cho việc mở rộng sản xuất, kinh doanh hoặc tái cấu trúc doanh nghiệp - một trong những nhu cầu cấp thiết của doanh nghiệp trong giai đoạn kinh tế suy giảm.

Việc áp trần lãi suất bằng biện pháp hành chính của NHNN còn vô hình trung tạo ra những tiền lệ xấu trong huy động vốn như chi ngoài, “đi đêm” với khách hàng… Các hình thức lách luật, lách trần lãi suất nêu trên cũng từng được đại diện NHNN nhìn nhận là hết sức tinh vi và không dễ phát hiện xử lý.

Làm gì để có thể  tự do hóa lãi suất?

Để có đồ thị lãi suất hợp lý, các chuyên gia kinh tế khuyến nghị, chỉ có tự do hóa lãi suất với điều tiết lãi suất thông qua cung - cầu thị trường mới có thể đưa biểu đồ lãi suất trở lại đường cong vốn có.

Theo các chuyên gia kinh tế, để có thể tiến tới tự do hóa lãi suất, nước ta cần phải có đủ các yếu tố môi trường kinh tế vĩ mô vững chắc, có đầy đủ hành lang pháp lý, hệ thống NH lành mạnh, thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán ổn định, đặc biệt nền kinh tế phải có khả năng hấp thụ và sử dụng vốn hiệu quả. Chiếu theo các điều kiện trên, có thể thấy rõ năm 2013 sẽ còn rất nhiều việc phải làm để có thể tiến tới tự do hóa lãi suất.

Mặc dù theo đánh giá tổng kết năm 2012, tình hình kinh tế vĩ mô nước ta cơ bản đã đi vào ổn định, lạm phát được kiềm chế ở mức khoảng 7%, cơ bản đã có hệ thống pháp lý đầy đủ, tuy nhiên theo đánh giá, hiện khả năng hấp thụ vốn và sử dụng vốn của nền kinh tế chưa tốt. Theo thống kê, dù trước đó lãi suất huy động đã được hạ từ 14%/năm về mức 9%/năm từ tháng 6-2012, tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng năm 2012 chỉ đạt khoảng 6%. Như vậy, so với mức tăng trưởng tín dụng 15-17% đặt ra trước đó, mức tăng trưởng thực tế đã thấp hơn rất nhiều, điều này cũng cho thấy, sức hấp thụ vốn của nền kinh tế thấp ở mức kỷ lục.

Yếu tố tiếp theo khiến tiến trình tự do hóa lãi suất đang bị chậm lại là hệ thống NH và thị trường tài chính, bao gồm thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán nước ta vận hành chưa ổn định, còn thiếu hiệu quả. Hiện tại, quá trình tái cấu trúc hệ thống các tổ chức tín dụng của nước ta đang được đẩy mạnh, tuy nhiên, để hoạt động ổn định thì còn cần thêm thời gian. Trong khi đó, thị trường tiền tệ năm 2012 còn nhiều bất ổn, thị trường chứng khoán xuống dốc, nhiều công ty chứng khoán đang đứng bên bờ vực phá sản thì mục tiêu ổn định thị trường tài chính để làm điều kiện tự do hóa lãi suất xem ra chưa phải là khả thi vào hiện tại.

Với mức lạm phát, dự báo trong năm 2013 sẽ tiếp tục ở mức tương tự hoặc thấp hơn đã là một biểu hiện cho thấy kinh tế vĩ mô nước ta đã dần ổn định. Việc điều hành lãi suất và tiến tới tự do hóa lãi suất có lẽ sẽ thành hiện thực trong một thời gian tới khi nền kinh tế tiếp tục ổn định và các điều kiện cần thiết về thị trường tài chính, NH đã chín muồi.

Thành Trung

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 119,000 ▲500K 121,000 ▲500K
AVPL/SJC HCM 119,000 ▲500K 121,000 ▲500K
AVPL/SJC ĐN 119,000 ▲500K 121,000 ▲500K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,840 ▲50K 11,250 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 10,830 ▲50K 11,210 ▲20K
Cập nhật: 08/07/2025 13:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.700 ▲500K 117.300 ▲400K
TPHCM - SJC 119.000 ▲500K 121.000 ▲500K
Hà Nội - PNJ 114.700 ▲500K 117.300 ▲400K
Hà Nội - SJC 119.000 ▲500K 121.000 ▲500K
Đà Nẵng - PNJ 114.700 ▲500K 117.300 ▲400K
Đà Nẵng - SJC 119.000 ▲500K 121.000 ▲500K
Miền Tây - PNJ 114.700 ▲500K 117.300 ▲400K
Miền Tây - SJC 119.000 ▲500K 121.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.700 ▲500K 117.300 ▲400K
Giá vàng nữ trang - SJC 119.000 ▲500K 121.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.700 ▲500K
Giá vàng nữ trang - SJC 119.000 ▲500K 121.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.700 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.700 ▲500K 117.300 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.700 ▲500K 117.300 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.000 ▲600K 116.500 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.880 ▲600K 116.380 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.170 ▲600K 115.670 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.940 ▲600K 115.440 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.030 ▲450K 87.530 ▲450K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.800 ▲350K 68.300 ▲350K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.110 ▲250K 48.610 ▲250K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.310 ▲550K 106.810 ▲550K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.720 ▲370K 71.220 ▲370K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.380 ▲390K 75.880 ▲390K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.870 ▲410K 79.370 ▲410K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.340 ▲230K 43.840 ▲230K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.100 ▲200K 38.600 ▲200K
Cập nhật: 08/07/2025 13:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,240 ▲50K 11,690 ▲50K
Trang sức 99.9 11,230 ▲50K 11,680 ▲50K
NL 99.99 10,810 ▲25K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,810 ▲25K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,450 ▲50K 11,750 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,450 ▲50K 11,750 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,450 ▲50K 11,750 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 11,900 ▲50K 12,100 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 11,900 ▲50K 12,100 ▲50K
Miếng SJC Hà Nội 11,900 ▲50K 12,100 ▲50K
Cập nhật: 08/07/2025 13:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16554 16823 17395
CAD 18596 18873 19488
CHF 32131 32513 33160
CNY 0 3570 3690
EUR 30025 30298 31326
GBP 34782 35175 36109
HKD 0 3197 3399
JPY 172 176 182
KRW 0 18 20
NZD 0 15399 15986
SGD 19902 20184 20707
THB 720 783 836
USD (1,2) 25860 0 0
USD (5,10,20) 25900 0 0
USD (50,100) 25928 25962 26302
Cập nhật: 08/07/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,942 25,942 26,302
USD(1-2-5) 24,904 - -
USD(10-20) 24,904 - -
GBP 35,179 35,274 36,172
HKD 3,269 3,278 3,378
CHF 32,397 32,498 33,311
JPY 175.46 175.78 183.23
THB 767.09 776.56 830.81
AUD 16,742 16,803 17,277
CAD 18,821 18,882 19,433
SGD 20,051 20,114 20,786
SEK - 2,703 2,796
LAK - 0.92 1.29
DKK - 4,043 4,182
NOK - 2,542 2,631
CNY - 3,593 3,691
RUB - - -
NZD 15,365 15,508 15,960
KRW 17.63 18.39 19.85
EUR 30,245 30,269 31,503
TWD 811.25 - 982.13
MYR 5,758.21 - 6,495.27
SAR - 6,846.82 7,210.03
KWD - 83,243 88,620
XAU - - -
Cập nhật: 08/07/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,970 25,980 26,320
EUR 30,085 30,206 31,333
GBP 34,984 35,124 36,118
HKD 3,266 3,279 3,384
CHF 32,196 32,325 33,253
JPY 174.64 175.34 182.56
AUD 16,684 16,751 17,291
SGD 20,091 20,172 20,723
THB 781 784 819
CAD 18,801 18,877 19,406
NZD 15,452 15,959
KRW 18.30 20.09
Cập nhật: 08/07/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25930 25930 26300
AUD 16640 16740 17302
CAD 18757 18857 19413
CHF 32348 32378 33269
CNY 0 3604.4 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4120 0
EUR 30295 30395 31168
GBP 35064 35114 36227
HKD 0 3330 0
JPY 175.07 176.07 182.58
KHR 0 6.267 0
KRW 0 18.9 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2590 0
NZD 0 15482 0
PHP 0 438 0
SEK 0 2760 0
SGD 20030 20160 20891
THB 0 746.7 0
TWD 0 900 0
XAU 11700000 11700000 12050000
XBJ 10800000 10800000 12050000
Cập nhật: 08/07/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,946 25,996 26,270
USD20 25,946 25,996 26,270
USD1 25,946 25,996 26,270
AUD 16,712 16,862 17,924
EUR 30,371 30,521 31,690
CAD 18,721 18,821 20,134
SGD 20,132 20,282 20,752
JPY 175.73 177.23 181.81
GBP 35,199 35,349 36,120
XAU 11,819,000 0 12,121,000
CNY 0 3,491 0
THB 0 784 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 08/07/2025 13:00