Cảnh báo nhập siêu từ Hàn Quốc
Kinh tế Hàn Quốc lao đao vì Mers! |
Đáng lưu ý, trong khi Hàn Quốc xuất khẩu sang Việt Nam những mặt hàng có giá trị kinh tế cao như: ôtô, máy móc thiết bị, sản phẩm điện tử, linh kiện… thì Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Hàn Quốc những sản phẩm thô như: dầu thô, than đá, cao su, thủy hải sản và những mặt hàng có giá trị gia tăng thấp như: dệt may, da giày.
Đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam tăng mạnh |
Cụ thể, trong 8 tháng năm 2015, chúng ta nhập từ Hàn Quốc nhóm hàng máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện với tổng trị giá là 3,89 tỉ USD, tăng 38,9% so với cùng kỳ; máy móc, thiết bị với tổng giá trị 3,12 tỉ USD, tăng 81% so với cùng kỳ... Còn Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc chủ yếu vẫn là hàng dệt may với tổng trị giá đạt 937,7 triệu USD, chiếm gần 20% tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này (trong đó, ta cũng nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may, da giày từ Hàn Quốc với giá trị lên đến 1,37 tỉ USD); các loại điện thoại, linh kiện ta xuất khẩu sang Hàn Quốc cũng đạt giá trị tương đối lớn nhưng chủ yếu ở dạng gia công, lắp ráp…
Với đà tăng trưởng mạnh nhập khẩu hàng hóa từ Hàn Quốc, cán cân thương mại giữa hai nước tiếp tục mất cân bằng nghiêm trọng về cơ cấu cũng như giá trị hàng hóa, trong đó Việt Nam đang bị thâm hụt thương mại lớn. Dự kiến, sau khi Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Hàn Quốc (VKFTA) có hiệu lực thực thi vào năm 2016 với hàng loạt các ưu đãi, mở cửa thị trường, cắt giảm thuế quan thì quy mô và chất lượng trong hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư giữa hai nước sẽ tiếp tục có những bước tiến nhảy vọt, trong đó khả năng nhập siêu từ thị trường Hàn Quốc vào Việt Nam sẽ gia tăng nhanh chóng.
Theo bà Phan Thị Thanh Minh, Cục trưởng Cục Công tác phía nam Bộ Công Thương, trong cam kết VKFTA, Hàn Quốc sẽ tự do hóa cho Việt Nam hơn 95% dòng thuế. Trong đó có nhiều nhóm hàng nông, thuỷ sản xuất khẩu chủ lực của nước ta như: tôm, cua, cá, hoa quả nhiệt đới và hàng công nghiệp dệt may, đồ gỗ, sản phẩm cơ khí. Đặc biệt, Hàn Quốc dành ưu đãi đặc biệt mở cửa thị trường cho Việt Nam đối với những sản phẩm như: tỏi, gừng, mật ong, khoai lang… Nhờ vậy, tạo cơ hội cạnh tranh đáng kể cho hàng xuất khẩu của Việt Nam xuất sang Hàn Quốc so với các đối thủ cạnh tranh khác trong khu vực.
Đối với Hàn Quốc, Việt Nam cũng cắt giảm 90% số dòng thuế, chủ yếu là nhóm hàng công nghiệp xuất khẩu đang có thế mạnh của Hàn Quốc ở thị trường nước ta như: nguyên phụ liệu dệt may, linh kiện điện tử, phụ tùng ôtô, điện gia dụng… Việc cắt giảm giảm này cũng giúp Hàn Quốc có cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ ở một thị trường lớn và tiềm năng như Việt Nam.
Tuy nhiên, trong khi thị trường Việt Nam được đánh giá là khá dễ tính, dễ tiếp cận, hầu như không có các hàng rào kỹ thuật và người tiêu dùng Việt Nam cũng khá chuộng hàng của Hàn Quốc thì việc tiếp cận với thị trường Hàn Quốc của các doanh nghiệp Việt Nam lại không hề dễ dàng. Bởi thị trường Hàn Quốc được đánh giá là khó tiếp cận với nhiều rào cản như: Việc đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn, hợp quy; vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm; vấn đề xuất xứ hàng hóa, bao bì, nhãn mác, thiết kế mẫu mã; văn hóa tiêu dùng; hệ thống phân phối phức tạp, chi phí xúc tiến thương mại, điều tra thị trường rất cao…
Hàn Quốc có những quy định phức tạp về kiểm dịch đối với các mặt hàng nông sản thực phẩm trong các yêu cầu về điều kiện nuôi trồng, kiểm tra chứng nhận và các biện pháp xử lý tại chỗ, thủ tục đánh giá rủi ro cũng nhiêu khê, kéo dài. Cụ thể như, sau thời gian thẩm định, xem xét kéo dài tới 5 năm (từ năm 2005 đến 2010), Chính phủ Hàn Quốc mới cho phép nhập khẩu thanh long từ Việt Nam.
Theo VKFTA, Hàn Quốc cam kết sẽ miễn thuế cho Việt Nam với lượng hạn ngạch 10 nghìn tấn tôm/năm và tăng dần trong 5 năm đến mức 15 nghìn tấn tôm/năm. Tuy nhiên, thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam khó có thể tận dụng được cơ hội này. Bởi hiện nay Việt Nam chỉ tận dụng được 2.500 tấn tôm/năm miễn thuế trong tổng số 5.000 tấn tôm/năm dành cho các nước ASEAN theo Hiệp
Nói về cơ hội xuất khẩu sang Hàn Quốc, ông Oda Hiroyuki, Giám đốc Công ty Goodlife, chuyên xuất khẩu trái cây cho hay, Hàn Quốc là thị trường xuất khẩu tiềm năng của nhiều loại trái cây Việt Nam. Tuy nhiên, việc xuất khẩu sang thị trường này vẫn hạn chế. Như đối với xoài, ngoài các quy định về an toàn thực phẩm, phía Hàn Quốc chỉ giới hạn cho sản phẩm của những công ty có nhà máy đặt tại Đồng bằng sông Cửu Long mới được xuất sang thị trường này.
Còn theo bà Lê Thị Hương, Giám đốc Công ty TNHH Sợi dệt nhuộm may Phúc An, dệt may là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Hàn Quốc, tuy nhiên, các doanh nghiệp nhỏ rất khó tiếp cận với thị trường này do phía Hàn Quốc đặt ra các tiêu chuẩn về nhà xưởng đối với doanh nghiệp xuất khẩu.
Bên cạnh đó, rào cản lớn còn ở chỗ, tâm lý và định kiến tiêu dùng của người Hàn Quốc hiện nay còn cho rằng, hàng Việt Nam chất lượng không tốt, không đảm bảo vệ sinh; niềm tự hào dân tộc về sản phẩm nông sản, thực phẩm của người dân Hàn Quốc rất cao, họ luôn cho rằng hàng của quốc gia mình là chất lượng tốt nhất.
Ông Nguyễn Văn Nhiệm, Giám đốc điều hành hệ thống sản xuất gia dụng, Tổng Công ty CP Phong Phú nhận định, các doanh nghiệp nhập khẩu Hàn Quốc hiện nay vẫn luôn ưu tiên hàng đầu cho hàng hóa của doanh nghiệp nước này sản xuất ra. Đây là khó khăn lớn để các doanh nghiệp Việt Nam có thể mở rộng thị trường sang nước này. Cụ thể, Hàn Quốc nhập khẩu khăn bông lớn nhất từ Việt Nam, tuy nhiên, chủ yếu vẫn là nhập hàng từ các doanh nghiệp FDI của nước này tại Việt Nam, hàng doanh nghiệp Việt xuất khẩu sang đây chiếm tỷ trọng không đáng kể, chủ yếu là sản phẩm giá rẻ, giá trị thấp.
Chưa kể, theo VKFTA, Hàn Quốc vẫn giữ bảo hộ đối với nhiều mặt hàng nông sản, gia súc, gia cầm, sản phẩm sữa, hoa quả, cây công nghiệp, sắn lát, tinh bột, vừng, khoai tây, khoai lang, tỏi, hạt tiêu, ớt… Nước này cũng có hệ thống phân phối với hàng trăm đại siêu thị, hàng nghìn siêu thị lớn nhỏ, hàng chục ngàn cửa hàng tiện ích khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài khó xâm nhập và cạnh tranh trên thị trường; hệ thống mua hàng và bảo quản rất phức tạp.
Với nhiều rào cản như trên, có thể thấy để tiếp cận, tận dụng cơ hội mở cửa từ thị trường của Hàn Quốc qua các FTA là điều không dễ dàng với các doanh nghiệp Việt. Trong khi đó, doanh nghiệp Hàn Quốc đã và đang có những bước tiến nhanh, mạnh, thuận lợi vào thị trường Việt Nam. Điều này, đặt ra nguy cơ hàng hóa từ Hàn Quốc sẽ tràn mạnh vào Việt Nam; thâm hụt thương mại của Việt Nam với Hàn Quốc được cảnh báo sẽ tiếp tục nới rộng, đặc biệt là khi VKFTA có hiệu lực thực thi từ năm 2016.
Mai Phương
Năng lượng Mới số 459