Cần sự ổn định về mặt bằng lãi suất

11:11 | 16/10/2021

106 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - So sánh với mặt bằng lãi suất trước thời điểm xảy ra dịch Covid-19, lãi suất huy động cũng như cho vay đều giảm mạnh. Dự báo từ nay đến cuối năm mặt bằng lãi suất tiếp tục duy trì sự ổn định

Lãi suất huy động giảm

Theo thống kê, lãi suất huy động trung bình tiếp tục có diễn biến giảm nhẹ trong tháng 9 vừa qua đối với cả hai kỳ hạn 6 tháng và 12 tháng. Theo đó, trung bình lãi suất huy động 6 tháng giảm 0,03%/năm xuống 4,71% và 12 tháng giảm 0,002%/năm còn 5,561% vào cuối tháng 9. Riêng nhóm ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô lớn (vốn trên 5.000 tỷ đồng) điều chỉnh giảm lãi suất đối với cả 2 loại kỳ hạn trên.

Cần sự ổn định về mặt bằng lãi suất
Lãi suất huy động cũng như cho vay đều giảm so với trước đây

Thực tế cho thấy, với mức lãi suất thấp như hiện nay đã làm giảm sức hấp dẫn của kênh gửi tiết kiệm, khiến một lượng tiền không nhỏ chảy vào các kênh đầu tư khác như bất động sản, chứng khoán...

Theo thống kê của Công ty Chứng khoán Bảo Việt, tại thời điểm cuối tháng 9, nhóm ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô lớn (vốn trên 5.000 tỷ đồng) đang có mức lãi suất huy động thấp nhất kể từ năm 2017 đến nay.

Cụ thể, trong tháng 9 vừa qua, nhóm này đã điều chỉnh giảm lãi suất huy động đối với 2 loại kỳ hạn 6 tháng và 12 tháng lần lượt 0,02 và 0,05 điểm phần trăm, xuống còn 4,45%/năm và 5,39%/năm.

Trong khi đó, đối với ngân hàng thương mại cổ phần quy mô nhỏ (vốn dưới 5.000 tỷ đồng), lãi suất huy động của kỳ hạn 6 tháng được điều chỉnh giảm 0,02 điểm phần trăm, xuống còn 5,37%/năm; song lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng vẫn điều chỉnh tăng nhẹ lên 6%/năm.

Ghi nhận vào đầu tháng 10/2021, lãi suất tiền gửi tiết kiệm tại nhiều ngân hàng hầu như không có biến động so với đầu tháng 9/2021 với cả 2 loại kỳ hạn 6 và 12 tháng, duy trì ở mức 3,775%/năm và 4,95%/năm. Ở khối ngân hàng thương mại nhà nước, lãi suất huy động ở các kỳ hạn chủ chốt của Vietcombank và BIDV vẫn được duy trì như cùng kỳ tháng 9/2021

Tương tự như vậy, ở khối ngân hàng thương mại cổ phần, lãi suất huy động tại các ngân hàng như: SCB, Techcombank, HDBank, Sacombank, SHB.... hầu như giữ nguyên so với cùng kỳ của tháng 9/2021.

Trong số này, chỉ có Sacombank điều chỉnh giảm nhẹ lãi suất huy động từ 0,1 - 0,2% ở các kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng và 24 tháng; còn Techcombank điều chỉnh giảm nhẹ lãi suất huy động ở kỳ hạn 6 tháng với mức giảm 0,2%/năm...

Nhìn chung toàn thị trường, hết tháng 9/2021, lãi suất huy động kỳ hạn 6 tháng thấp nhất là 3,7%/năm và cao nhất là 6,1%/năm; kỳ hạn 12 tháng thấp nhất là 4,5%/năm và cao nhất 6,8%/năm. Có thể thấy, động thái duy trì mặt bằng lãi suất huy động ở mức thấp và có chiều hướng giảm tại một số ngân hàng được cho là nhằm cân đối với việc hạ lãi suất cho vay theo kêu gọi của Ngân hàng Nhà nước và Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam.

Theo đánh giá của các chuyên gia, lãi suất huy động giảm sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng điều chỉnh lãi suất cho vay, giúp doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận nguồn vốn giá rẻ để phục hồi sản xuất, kinh doanh.

Tuy nhiên, theo đại diện một ngân hàng cổ phần ở Hà Nội, việc cho vay cũng không dễ dàng do ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh. Doanh nghiệp bị đứt gãy chuỗi sản xuất, tiêu thụ, dòng tiền gián đoạn không quay vòng được vốn, do vậy khó đáp ứng đủ các yêu cầu về phương án sản xuất, dòng tiền trả nợ... Do đó, ngân hàng cần phải đưa ra các giải pháp tư vấn tài chính hợp lý, hỗ trợ khách hàng phục hồi sản xuất

Duy trì mặt bằng lãi suất thấp là cần thiết

Theo thống kê của NHNN, từ giữa tháng 7 đến nay 16 ngân hàng đã giảm lãi suất cho vay với số tiền là 11.800 tỉ đồng. Từ nay đến cuối năm, số tiền mà các ngân hàng tiếp tục hạ lãi suất cho vay sẽ tăng lên. Lũy kế từ ngày 23-1-2020 đến cuối tháng 9-2021, tổng số tiền lãi các tổ chức tín dụng đã miễn, giảm, hạ lãi suất cho khách hàng khoảng 27.000 tỉ đồng.

Định hướng điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước từ nay tới cuối năm là tiếp tục duy trì mặt bằng lãi suất cho vay như hiện tại và sẽ theo dõi sát diễn biến dịch bệnh.

Với lãi suất huy động, Ngân hàng Nhà nước không đặt vấn đề hạ lãi suất đầu vào thời điểm hiện nay, nhằm bảo đảm thanh khoản của hệ thống cũng như quyền lợi người gửi tiền.

Theo Phó Thống đốc thường trực NHNN Đào Minh Tú, lãi suất đầu vào của các ngân hàng đã giảm liên tục từ năm 2020 đến nay, hiện vào khoảng 5-5,5%/năm. Như vậy, trường hợp lạm phát duy trì ở mức 3% thì người gửi tiền mới có lãi suất thực dương.

“Nếu huy động với lãi suất quá thấp thì người dân sẽ không gửi tiền ngân hàng nữa mà đi mua nhà, mua vàng. Trong khi, các ngân hàng chủ yếu là đi vay từ người dân để cho vay trở lại nền kinh tế. Do đó, phải duy trì được nguồn vốn đầu vào, không thể đặt mục tiêu giảm lãi suất đầu vào để giảm lãi suất đầu ra từ nay đến cuối năm”, Phó thống đốc Tú nhấn mạnh

Thời gian tới NHNN sẽ tiếp tục xem xét điều chỉnh tăng hạn mức tín dụng cho các ngân hàng thương mại để kích thích cho nền kinh tế. Ngoài ra, ngành Ngân hàng cũng đang phối hợp với các bộ, ban, ngành xem xét về việc đưa gói cấp bù lãi suất 3.000 tỷ đồng tương đương quy mô dư nợ hơn 100.000 tỷ đồng (lãi suất 3-4%/năm) ra nền kinh tế để hỗ trợ người dân và doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, NHNN tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng chủ động cân đối khả năng tài chính để áp dụng lãi suất cho vay hợp lý, tiết giảm chi phí hoạt động để tập trung nguồn lực giảm lãi suất cho vay đối với dư nợ hiện hữu và các khoản cho vay mới, góp phần hỗ trợ và đồng hành cùng doanh nghiệp vượt qua khó khăn.

M.C

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,000 ▲800K 120,000 ▲800K
AVPL/SJC HCM 118,000 ▲800K 120,000 ▲800K
AVPL/SJC ĐN 118,000 ▲800K 120,000 ▲800K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,020 ▲50K 11,300 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 11,010 ▲50K 11,290 ▲50K
Cập nhật: 13/05/2025 14:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.000 ▲500K 115.500 ▲500K
TPHCM - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Hà Nội - PNJ 112.500 115.000
Hà Nội - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Đà Nẵng - PNJ 112.500 115.000
Đà Nẵng - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Miền Tây - PNJ 113.000 ▲500K 115.500 ▲500K
Miền Tây - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.500 115.000
Giá vàng nữ trang - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.500
Giá vàng nữ trang - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.000 ▲500K 115.500 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.000 ▲500K 115.500 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.800 ▲500K 115.300 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.690 ▲500K 115.190 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.980 ▲500K 114.480 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.750 ▲500K 114.250 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.130 ▲380K 86.630 ▲380K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.100 ▲290K 67.600 ▲290K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.620 ▲210K 48.120 ▲210K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 102.760 105.260
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.680 70.180
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.270 74.770
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.710 78.210
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.700 43.200
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.530 38.030
Cập nhật: 13/05/2025 14:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,090 ▲50K 11,540 ▲50K
Trang sức 99.9 11,080 ▲50K 11,530 ▲50K
NL 99.99 10,850
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,850
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,300 ▲50K 11,600 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,300 ▲50K 11,600 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,300 ▲50K 11,600 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 11,850 ▲150K 12,050 ▲130K
Miếng SJC Nghệ An 11,850 ▲150K 12,050 ▲130K
Miếng SJC Hà Nội 11,850 ▲150K 12,050 ▲130K
Cập nhật: 13/05/2025 14:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16110 16377 16951
CAD 18054 18329 18946
CHF 30135 30509 31153
CNY 0 3358 3600
EUR 28214 28480 29510
GBP 33448 33835 34771
HKD 0 3199 3401
JPY 168 173 179
KRW 0 17 18
NZD 0 14967 15556
SGD 19368 19648 20173
THB 697 760 813
USD (1,2) 25688 0 0
USD (5,10,20) 25726 0 0
USD (50,100) 25754 25788 26130
Cập nhật: 13/05/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,790 25,790 26,150
USD(1-2-5) 24,758 - -
USD(10-20) 24,758 - -
GBP 33,792 33,883 34,780
HKD 3,273 3,283 3,383
CHF 30,320 30,415 31,250
JPY 172.06 172.37 180.06
THB 741.37 750.53 803
AUD 16,301 16,360 16,802
CAD 18,319 18,377 18,874
SGD 19,568 19,629 20,240
SEK - 2,602 2,694
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,801 3,932
NOK - 2,444 2,530
CNY - 3,567 3,665
RUB - - -
NZD 14,874 15,012 15,443
KRW 17.06 17.79 19.1
EUR 28,394 28,417 29,632
TWD 773.78 - 936.8
MYR 5,593.95 - 6,313.23
SAR - 6,807.61 7,165.5
KWD - 82,156 87,497
XAU - - -
Cập nhật: 13/05/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,760 25,770 26,110
EUR 28,231 28,344 29,444
GBP 33,594 33,729 34,696
HKD 3,263 3,276 3,382
CHF 30,184 30,305 31,204
JPY 171.27 171.96 179
AUD 16,251 16,316 16,845
SGD 19,545 19,623 20,158
THB 757 760 793
CAD 18,245 18,318 18,827
NZD 14,989 15,495
KRW 17.49 19.26
Cập nhật: 13/05/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25770 25770 26130
AUD 16253 16353 16921
CAD 18232 18332 18886
CHF 30368 30398 31283
CNY 0 3574 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28486 28586 29358
GBP 33728 33778 34896
HKD 0 3355 0
JPY 171.97 172.97 179.53
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15056 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19522 19652 20379
THB 0 724 0
TWD 0 845 0
XAU 11800000 11800000 12000000
XBJ 11000000 11000000 12000000
Cập nhật: 13/05/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,180
USD20 25,770 25,820 26,180
USD1 25,770 25,820 26,180
AUD 16,258 16,408 17,478
EUR 28,491 28,641 29,821
CAD 18,163 18,263 19,579
SGD 19,580 19,730 20,205
JPY 172.28 173.78 178.47
GBP 33,784 33,934 34,723
XAU 11,798,000 0 12,002,000
CNY 0 3,457 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 13/05/2025 14:00