Tăng sức cạnh tranh cho gạo Việt

09:56 | 14/12/2017

1,221 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp nước ta đã đạt được những thành tích vượt bậc, trong đó phải kể đến sản lượng lúa gạo. Tuy nhiên, hiện nay ngành lúa gạo vẫn đang phải đối mặt với nhiều thách thức và cạnh tranh trên cả thị trường nội địa và quốc tế.

Thua ngay trên sân nhà

Nhiều năm qua, Việt Nam đứng “top” đầu thế giới về xuất khẩu gạo, tuy nhiên, do chưa tạo dựng được thương hiệu nên gạo Việt khi xuất khẩu thường xuyên rơi vào vòng luẩn quẩn “sản lượng nhiều nhưng giá thấp”. Theo số liệu thống kê của Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), 11 tháng năm 2017, xuất khẩu gạo dù đạt 5,52 triệu tấn, trị giá 2,49 tỉ USD, song giá gạo xuất khẩu bình quân chỉ đạt 451 USD/tấn. So với các đối thủ như Thái Lan, Myanmar…, gạo của Việt Nam xuất khẩu lép vế hơn, nhất là đối với các dòng sản phẩm gạo thơm của Thái Lan, Myanmar vốn đã có thương hiệu trên thị trường quốc tế.

tang suc canh tranh cho gao viet
Gạo Việt Nam lép vế ngay trên sân nhà

Không chỉ lép vế trên thị trường quốc tế, mà ngay cả thị trường nội địa gạo Việt cũng thua kém với các sản phẩm gạo nhập khẩu. Dù gạo nhập khẩu từ các nước như Nhật Bản, Thái Lan… có giá cao hơn gạo trong nước sản xuất nhưng vẫn được nhiều người tiêu dùng lựa chọn. Cụ thể, trên thị trường Hà Nội xuất hiện các loại gạo nhập có giá đắt gấp nhiều lần gạo nội như gạo dẻo Thái có giá 80.000 đồng/kg, gạo thơm Đài Loan có giá 110.000 đồng/kg, gạo nếp Thái nhập khẩu Muscha 100.000 đồng/kg... Trong khi đó, các loại gạo nội có giá bán rẻ hơn rất nhiều so với gạo ngoại, như gạo Xi dẻo 10.000 đồng/kg, gạo Lài sữa 13.000 đồng/kg, gạo Bắc Hương 15.000 đồng/kg, gạo Tám Điện Biên 19.000 đồng/kg…

Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do từ trước tới nay chúng ta vẫn quá chú trọng đến việc tăng sản lượng mà không chú trọng đến chất lượng cũng như xây dựng thương hiệu. Gạo của Việt Nam xuất khẩu không được đánh giá cao về chất lượng, thị trường xuất khẩu tập trung vào gạo cấp thấp, kém đa dạng.

Bên cạnh đó, việc sản xuất lúa gạo của Việt Nam chưa bảo đảm an toàn thực phẩm. Phần lớn, nông dân trồng lúa với nhiều chủng loại khác nhau theo lối tự phát. Nông dân vẫn lạm dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật tràn lan làm cho chất lượng lúa gạo càng khó kiểm soát.

Thương hiệu gạo Việt vô cùng cấp bách

tang suc canh tranh cho gao viet
Ông Võ Thành Đô

Chất lượng gạo xuất khẩu thấp, công nghiệp chế biến chưa phát triển, khiến khả năng cạnh tranh không cao. Vì vậy, trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt cả thị trường nội địa lẫn quốc tế thì việc xây dựng thương hiệu, nâng tầm gạo Việt là điều rất quan trọng để đảm bảo cho sự phát triển bền vững.

Phát biểu tại Hội thảo về Dự thảo về quy chế quản lý và sử dụng nhãn hiệu gạo Việt Nam mới đây, ông Võ Thành Đô - Phó cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN&PTNT) cho biết, trong bối cảnh xuất khẩu gạo phát triển không bền vững, xuất khẩu nhiều nhưng chủ yếu ở phân khúc chất lượng thấp, trung bình. Trong khi đó, thị trường nội địa có nhiều biến động và chịu sức ép cạnh tranh của hàng loạt thương hiệu gạo đến từ Thái Lan, Nhật Bản, Ấn Độ… Do đó, việc xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam sẽ đẩy mạnh quảng bá sản phẩm, tạo niềm tin và uy tín của sản phẩm với người tiêu dùng là điều hết sức cấp thiêt. Từ đó, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các sản phẩm gạo của Việt Nam trên thị trường nội địa và quốc tế.

Theo Bộ Công Thương, trong 10 tháng năm 2017, Việt Nam đã xuất khẩu gạo tới 132 thị trường thế giới. Trong đó, Trung Quốc chiếm 40% với khối lượng 2,03 triệu tấn, tăng 35% so với cùng kỳ năm ngoái. Bên cạnh đó, lượng gạo xuất khẩu sang thị trường Philippines cũng tăng mạnh 41,3% so với cùng kỳ năm ngoái, Malaysia tăng 97,3%, Bờ Biển Ngà tăng 39,7%...

Tuy nhiên, trên thực tế, việc xây dựng được thương hiệu gạo Việt Nam là một thách thức lớn đối với doanh nghiệp sản xuất lúa gạo Việt. Theo ông Phan Văn Hòa - Giám đốc Công ty TNHH Khoa học công nghệ Vĩnh Hòa (Nghệ An), việc xây dựng thương hiệu gạo Việt là vô cùng cấp bách. Tuy nhiên, trên thực tế phần lớn người nông dân hiện nay vẫn canh tác theo hướng manh mún và nhỏ lẻ. Thậm chí, ngay như việc phát triển những cánh đồng mẫu lớn ở nhiều địa phương cũng chỉ mang tính phong trào, hình thức là chủ yếu, chứ chưa thực chất, chưa gắn được trách nhiệm và quyền lợi thiết thực của nông dân, doanh nghiệp.

Mặt khác, việc thiếu vắng sự vào cuộc của nhà khoa học, thiếu sự hỗ trợ của các cấp, ngành địa phương trong các khâu tổ chức thực hiện, đến thu hoạch, tìm đầu ra cho sản phẩm và phát triển thị trường… là những rào cản đang khiến người tham gia khó mặn mà, cũng như thiếu sự mạnh dạn đầu tư. Đặc biệt, mắt xích giữa Nhà nước với nhà doanh nghiệp trong chuỗi liên kết “bốn nhà” còn rất lỏng lẻo. Doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng để mở rộng đầu tư cũng như tạo nền tảng và niềm tin với đối tác làm hạn chế sự vươn xa phát triển thị trường.

Ông Nguyễn Anh Tuấn - Tổng Công ty Lương thực miền Bắc chia sẻ, việc xây dựng được thương hiệu gạo Việt Nam là một trong những điều kiện tiên quyết để ngành lúa gạo phát triển trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Tuy nhiên, việc xây dựng được những vùng nguyên liệu lớn và đạt chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Đơn cử như với Vinafood 1 thì việc tìm nguồn nguyên liệu tương đối khó khăn. Do vậy, để phát triển về lâu dài, Nhà nước cũng cần có những chính sách phù hợp và kịp thời để doanh nghiệp và người nông dân nâng cao ý thức, đầu tư đúng mức cho việc sản xuất lúa gạo đảm bảo chất lượng ở tất cả các khâu như giống, sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật để tạo ra sản phẩm đạt chất lượng tốt nhất.

Theo dự báo, trong tháng cuối cùng của năm 2017 xuất khẩu gạo của nước ta sẽ đạt khoảng 400-450 nghìn tấn, qua đó đưa tổng khối lượng gạo xuất khẩu trong năm 2017 lên mức 5,9-6 triệu tấn gạo, tăng 1,1-1,2 triệu tấn gạo so với năm 2016.

Đông Nghi - Song Nguyễn

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 80,000 82,500
AVPL/SJC HCM 80,000 82,500
AVPL/SJC ĐN 80,000 82,500
Nguyên liệu 9999 - HN 73,150 74,100
Nguyên liệu 999 - HN 73,050 74,000
AVPL/SJC Cần Thơ 80,000 82,500
Cập nhật: 24/04/2024 01:02
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 74.800
TPHCM - SJC 79.800 82.300
Hà Nội - PNJ 73.000 74.800
Hà Nội - SJC 79.800 82.300
Đà Nẵng - PNJ 73.000 74.800
Đà Nẵng - SJC 79.800 82.300
Miền Tây - PNJ 73.000 74.800
Miền Tây - SJC 81.000 83.300
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 79.800 82.300
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000
Giá vàng nữ trang - SJC 79.800 82.300
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 73.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 55.430
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 43.270
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 30.810
Cập nhật: 24/04/2024 01:02
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,285 7,500
Trang sức 99.9 7,275 7,490
NL 99.99 7,280
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,260
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,350 7,530
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,350 7,530
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,350 7,530
Miếng SJC Thái Bình 8,100 8,310
Miếng SJC Nghệ An 8,100 8,310
Miếng SJC Hà Nội 8,100 8,310
Cập nhật: 24/04/2024 01:02
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 81,000 83,300
SJC 5c 81,000 83,320
SJC 2c, 1C, 5 phân 81,000 83,330
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 72,900 74,700
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 72,900 74,800
Nữ Trang 99.99% 72,600 73,900
Nữ Trang 99% 71,168 73,168
Nữ Trang 68% 47,907 50,407
Nữ Trang 41.7% 28,469 30,969
Cập nhật: 24/04/2024 01:02

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,086.35 16,248.84 16,769.95
CAD 18,195.12 18,378.91 18,968.33
CHF 27,338.60 27,614.75 28,500.38
CNY 3,456.34 3,491.25 3,603.76
DKK - 3,584.67 3,721.91
EUR 26,544.10 26,812.22 27,999.27
GBP 30,775.52 31,086.38 32,083.34
HKD 3,179.16 3,211.27 3,314.26
INR - 305.76 317.98
JPY 160.26 161.88 169.61
KRW 16.05 17.83 19.45
KWD - 82,702.86 86,008.35
MYR - 5,294.62 5,410.05
NOK - 2,284.04 2,380.99
RUB - 260.34 288.19
SAR - 6,795.62 7,067.23
SEK - 2,304.98 2,402.82
SGD 18,307.44 18,492.37 19,085.43
THB 609.44 677.15 703.07
USD 25,148.00 25,178.00 25,488.00
Cập nhật: 24/04/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,191 16,211 16,811
CAD 18,316 18,326 19,026
CHF 27,416 27,436 28,386
CNY - 3,443 3,583
DKK - 3,562 3,732
EUR #26,379 26,589 27,879
GBP 31,123 31,133 32,303
HKD 3,118 3,128 3,323
JPY 160.3 160.45 170
KRW 16.32 16.52 20.32
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,251 2,371
NZD 14,862 14,872 15,452
SEK - 2,279 2,414
SGD 18,140 18,150 18,950
THB 636.15 676.15 704.15
USD #25,170 25,170 25,488
Cập nhật: 24/04/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,185.00 25,188.00 25,488.00
EUR 26,599.00 26,706.00 27,900.00
GBP 30,785.00 30,971.00 31,939.00
HKD 3,184.00 3,197.00 3,301.00
CHF 27,396.00 27,506.00 28,358.00
JPY 160.58 161.22 168.58
AUD 16,138.00 16,203.00 16,702.00
SGD 18,358.00 18,432.00 18,976.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 18,250.00 18,323.00 18,863.00
NZD 14,838.00 15,339.00
KRW 17.68 19.32
Cập nhật: 24/04/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25250 25250 25488
AUD 16205 16255 16765
CAD 18371 18421 18877
CHF 27680 27730 28292
CNY 0 3477 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26915 26965 27676
GBP 31193 31243 31904
HKD 0 3140 0
JPY 162.35 162.85 167.38
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0403 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14831 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18468 18518 19079
THB 0 647.1 0
TWD 0 779 0
XAU 8110000 8110000 8270000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 24/04/2024 01:02