Bí ẩn về cái chết trong chuyến thám hiểm tới New Ghinê (phần 3)

18:00 | 24/05/2019

575 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Chuyến hành trình cuối cùng của họ dừng chân tại Atsj, nơi sinh sống của khoảng 1.500 người, cách nơi họ cắm trại ở Agats 35 dặm. Đến đây, họ bị viên cảnh sát Henri Watrin cảnh báo rằng chiếc thuyền đã quá tải khi chất đầy rìu sắt, dao phát rẫy, dao nhọn, thuốc lá, lưỡi câu, quần áo, nước, thực phẩm và nhiên liệu.

Michael tách nhóm Peabody vào cuối tháng 6 để bắt đầu chuyến đi riêng của mình. Ông tỏ ra rất ấn tượng về chất lượng của các sản phẩm thủ công mà người Asmat làm ra, trong đó có chiếc sào dài hơn 10 mét được sơn nhiều màu, những chiếc sọ người được quét sơn. Dùng những chiếc rìu sắt, thuốc lá - những thứ rất có giá trị đối với người Asmat - Michael đổi được một bộ sưu tập các mẫu vật và một chiếc thuyền độc mộc để phục vụ chuyến hành trình sau này của ông.

bi an ve cai chet trong chuyen tham hiem toi new ghine phan 3
Hollandia – Thủ phủ New Ghinê trên bản đồ dưới thời là thuộc địa Hà Lan

Michael bắt đầu mơ tới một buổi triển lãm về bộ tộc Asmat tại Bảo tàng Nghệ thuật nguyên thủy của cha mình ở New York. Ông viết trên tạp chí của mình rằng: “Điểm đáng chú ý của nghệ thuật này là nền văn hóa sản sinh ra nó vẫn còn nguyên vẹn, một số khu vực xa xôi vẫn còn hủ tục săn đầu người”. Michael rõ ràng đã không gặp vấn đề gì với người Asmat trong chuyến đi của mình. Ông nhập lại đoàn nghiên cứu của Harvard vào ngày 10-7-1961 nhưng vẫn quyết tâm quay trở lại để thu thập các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của người Asmat cho bảo tàng của cha ông.

Nhóm Harvard trở lại Mỹ vào đầu tháng 9-1961. Trở về nhà, Michael nhận được tin xấu: Cha mẹ ông chuẩn bị ly hôn. Michael Rockefeller chán nản, lao vào dự án nghệ thuật New Ghinê đang thai nghén của mình.

Chuyến của Michael

Ông tích cực chuẩn bị cho chuyến trở lại New Ghinê để sưu tập các mẫu vật của bộ tộc người Asmat. Ông dự tính tới thăm càng nhiều bản làng càng tốt bằng phương tiện duy nhất là thuyền. Ông sẽ lưu giữ các mẫu vật ở trại đóng tại thị trấn duyên hải Agats. Để thực hiện chuyến đi, ông cần được nhà chức trách chấp thuận. Việc này khá dễ dàng nhờ người cha quyền lực của ông. Chỉ chưa đầy 2 tuần ở Mỹ, ông đã quay trở lại New Ghinê vào cuối tháng 9-1961.

Điểm dừng chân đầu tiên là Hollandia, vùng duyên hải phía bắc New Ghinê. Ông được giới thiệu một hướng dẫn viên tên là Rene Wassink, 34 tuổi, đang làm việc cho Cơ quan các vấn đề bản địa của Hà Lan. Hai người đã tới Merauke, vùng duyên hải phía nam và mua một chiếc thuyền máy của Rob Eibrink Jansen, một quan chức người Hà Lan. Đây là một chiếc thuyền kỳ quặc, thiết kế theo kiểu thuyền mà cảnh sát địa phương dùng để tuần tra trên sông.

Thuyền gồm hai chiếc xuồng dài hơn 10 mét được ghép với nhau bằng một chiếc boong bằng tre, trên đó dựng một chiếc lều chỉ đủ che mưa nắng. Thuyền có gắn hai chiếc môtơ ngoài với sức đẩy 18 mã lực và chất đầy can đựng nhiên liệu. Sau này Jansen kể lại với báo chí Hà Lan rằng, ông đã cảnh báo Michael và Wassink rằng chiếc thuyền bị quá tải, chỉ phù hợp khi chạy trên sông và không an toàn nếu dùng nó trên biển. Ông cũng cảnh báo họ nên tránh đi vào cửa sông Eilanden khi thủy triều lên, nhưng họ đã không nghe ông.

Michael và Wassink bắt đầu hành trình vào giữa tháng 10-1961, và chỉ trong vòng 1 tháng, họ đã đặt chân tới hơn chục bản làng của người Asmat. Michael đã viết nhiều thư về nhà kể về quá trình sưu tầm đồ thủ công của người Asmat. Michael đặc biệt thích sưu tập sọ người đã được trang trí và tô vẽ. Một quan chức thuộc địa Hà Lan sau này đã nói rằng chính Michael đã tạo ra một thị trường về sọ người và điều này có thể dẫn tới cuộc đổ máu săn đầu người.

bi an ve cai chet trong chuyen tham hiem toi new ghine phan 3
Người Asmat bản địa.

Được biết, Michael đã đổi hai chiếc rìu sắt và 4 bao thuốc lá cho chiếc thuyền. Thế nhưng, ông đã đổi tới 10 chiếc rìu sắt cho một chiếc sọ người. Vấn đề này không được ông đề cập tới trong các lá thư. Trong chuyến đi, thực đơn của Michael và Wassink lúc nào cũng giống nhau gồm cơm, thịt bò muối, thịt giăm bông hộp. Họ tắm bằng nước sông và ngủ trong túi ngủ để tránh côn trùng. Có lần, Michael viết trong thư rằng chuyến đi của ông và bạn đồng hành chẳng khác gì hai cậu bé Tom và Huck trong tác phẩm của nhà văn Mark Twain. Lần khác, ông nói rằng con thuyền của ông không ổn định trong điều kiện gió mùa thổi mạnh. Tuần thứ hai của tháng 11-1961, Michael viết thư nói rằng ông hy vọng được đón Giáng sinh ở nhà sau khi thăm thêm một vài ngôi làng nữa. Chuyến hành trình cuối cùng của họ dừng chân tại Atsj, nơi sinh sống của khoảng 1.500 người, cách nơi họ cắm trại ở Agats 35 dặm. Đến đây, họ bị viên cảnh sát Henri Watrin cảnh báo rằng chiếc thuyền đã quá tải khi chất đầy rìu sắt, dao phát rẫy, dao nhọn, thuốc lá, lưỡi câu, quần áo, nước, thực phẩm và nhiên liệu.

bi an ve cai chet trong chuyen tham hiem toi new ghine phan 3
Những cậu bé Ndani tập chiến đấu (Ảnh do Michael chụp năm 1961)

Watrin nói với Michael: “Ông không thể đi với con thuyền như thế. Tôi cấm ông. Ông phải dỡ bớt đồ xuống hoặc không được phép đi”. Michael trả lời: “Vâng, vâng, tôi sẽ lấy bớt đồ xuống”.

Nhưng khi viên cảnh sát đi chỗ khác, Michael đã đẩy thuyền đi, khi chiếc thuyền vẫn trong tình trạng quá tải vào trưa ngày thứ 7 ngày 18-11-1961. Trên thuyền lúc đó có Wassink, Michael cùng hai cậu bé người Asmat là Simon và Leo.

Tai nạn xảy ra

Chuyến hành trình tới Atsj của 4 người đã phải đi qua cửa sông Eilanden, nơi nguy hiểm được cảnh báo trước. Wassink sau này nói rằng chính Simon và Leo đã giục hai người cho thuyền tăng tốc dọc bờ biển và vượt qua cửa sông Eilanden. Lúc 2 giờ 15 chiều, khi chiếc thuyền vào khu vực sông vào biển Arafura này, điều kinh hoàng đã xảy ra.

Những con sóng lớn ập mạnh vào phần đuôi và mạn thuyền, làm máy ngừng hoạt động và nước tràn lên boong. Chiếc thuyền như đang chìm dần, trong khi dòng thủy triều tiếp tục đẩy thuyền ra biển, Wassink kể lại.

(Còn tiếp)

Thiên Phú