Thoái vốn tại các tổ chức tín dụng, khó hay dễ?
Năng lượng Mới số 411
Theo quy định của Thủ tướng Chính phủ, DNNN không được góp vốn, mua cổ phần của ngân hàng, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt do chính Thủ tướng phê duyệt. Doanh nghiệp nào đang có vốn góp thì phải thoái hết số vốn đã đầu tư. Quá trình này diễn ra khá chậm chạp, lý do chắc cũng không nằm nhiều phía bên DNNN bởi e dè những quy định quản lý ngặt nghèo. Có chăng chính là từ phía khách hàng tiềm năng, những người sẽ đứng ra nắm giữ cổ phần ngân hàng - ở thì tương lai. Họ không mặn mà gì lắm với những mục tiêu đầu tư khá “hóc búa” này.
Tập đoàn Điện lực Việt Nam hiện đang nắm giữ 16% cổ phần ở ABBank
Còn nhớ khi hệ thống tài chính, ngân hàng, chứng khoán bùng nổ, không ít tập đoàn, doanh nghiệp (cả tư nhân và quốc doanh) đã thành lập ngân hàng nhằm mục đích tự “thu xếp vốn” cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, nhiều lỗ hổng, kẽ hở đã bị lợi dụng nhằm trục lợi bất chính. Khi NHNN bắt tay làm lành mạnh hóa ngành ngân hàng nói chung thì cả hệ thống lộ ra những vấn đề, các cổ đông lâm vào tình trạng “tiến thoái lưỡng nan”, giữ không xong mà bán cũng không được. Hơn nữa, việc chuyển nhượng cổ phần với số lượng lớn và có quyền biểu quyết tại bất kỳ ngân hàng nào cũng phải được sự chấp nhận của NHNN, đây cũng là vấn đề với không ít người muốn bán và muốn mua - đặc biệt là với trường hợp thoái vốn theo giá thị trường.
Thoái vốn theo giá thị trường hiểu nôm na là cứ mang cổ phiếu ngân hàng ra bán đại chúng, ai có khả năng mua (dĩ nhiên là được NHNN gật đầu). Tuy nhiên, hình thức này lại gây nhiều trở ngại nhất - nếu không muốn nói là khiến cổ phần ngân hàng bị ế.
Thứ nhất, ngân hàng hay thị trường tài chính nói chung hiện nay không phải là kênh đầu tư hấp dẫn với đa phần nhà đầu tư, đặc biệt là những người không có nguồn vốn dài hạn. Hệ thống ngân hàng đang được kiểm soát chặt chẽ sẽ hạn chế tối đa những sự đầu cơ, chộp giật. Hơn nữa, với mức lãi suất thấp, chi phí vốn vay, mức trích lập dự phòng rủi ro đang được đẩy cao thì việc mong chờ lợi nhuận lớn nếu đầu tư vào ngành ngân hàng là có vẻ... xa vời.
Thứ hai, với “nguồn cung” dồi dào hiện nay, các ngân hàng phải - xa hơn là các doanh nghiệp đang phải thoái vốn tại ngân hàng đó - phải tự PR và tranh giành nhà đầu tư có khả năng. Nhà đầu tư sẽ có đặc quyền được chọn lựa những ngân hàng ổn định nhất, tiềm năng nhất. Điều này là tương đối khó trong tình hình hiện nay, khi nhiều số liệu của hệ thống ngân hàng vẫn thiếu sự đồng nhất.
Thứ ba, NHNN chắc chắn sẽ là một “cửa ải” khó tính dành cho bất kỳ nhà đầu tư nào. Anh sẽ phải chứng minh năng lực quản trị, nguồn vốn và thậm chí là nguồn gốc của số tiền đó nếu muốn trở thành cổ đông lớn của ngân hàng. Đó là để tránh tính trạng có ông đi đầu tư bằng cách vay tiền của ngân hàng A rồi dồn vào mua ngân hàng B. Điều này có thể gây đôi chút khó khăn cho các cá nhân, tổ chức muốn nắm cổ phần của ngân hàng, tuy nhiên là vô cùng cần thiết nếu chúng ta không muốn lặp lại những vấn đề đã từng làm lao đao cả nền kinh tế trong mấy năm trước đây.
Thứ tư, lại là NHNN vẫn sẽ là người quyết định xem ai được ngồi vào “ghế” lãnh đạo ở các ngân hàng thương mại. Có nghĩa là anh mua được cổ phần rồi, thành cổ đông lớn rồi, nhưng nếu anh không chứng minh được năng lực thì đừng mơ ngồi vào vị trí hội đồng thành viên, hay ban điều hành. Nắm trong tay cổ phần nhưng không có quyền điều hành, xem ra việc này sẽ làm nản lòng hầu hết những nhà đầu tư “có tiền” trong nước hiện nay.
Câu chuyện quyết liệt tái cấu trúc ngành ngân hàng cũng là lý do khiến việc thoái vốn gặp không ít khó khăn.
Hãy nhìn Ngân hàng Xây dựng (VNCB) - thành viên đầu tiên trong hệ thống ngân hàng được NHNN mua lại với giá 0 đồng, thực chất là một hình thức quốc hữu hóa nhằm đảm bảo an toàn hệ thống và là biện pháp cuối cùng trong mọi biện pháp. Tuy vậy, ở khía cạnh nhà đầu tư, thì họ đã mất trắng tất cả cổ phần ở trong ngân hàng. Không nhiều người nắm được đường đi nước bước của NHNN, cũng như những thông tin “chân tơ kẽ tóc” trong nội bộ các ngân hàng.
Hơn nữa, với định hướng hệ thống ngân hàng sẽ chỉ còn trên dưới 15 thành viên, đã bao gồm cả những ngân hàng chủ lực là Vietcombank, VietinBank, BIDV và Agribank. Câu hỏi đặt ra là, ngân hàng nào sẽ là đối tượng tiếp theo được NHNN ra tay mua lại?
Mấy lý do trên khiến DNNN muốn thoái vốn thì dùng kiểu “phi thị trường” - khi đã có quyết định của Thủ tướng phê duyệt, mở đường cho việc thoái vốn dưới mệnh giá và dưới giá trị sổ sách. DNNN có thể bán lại cho NHNN hoặc cho các ngân hàng thương mại quốc doanh theo phương án thoái vốn đã được phê duyệt. Đó là với trường hợp DNNN sở hữu từ 5% vốn điều lệ trở lên tại tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, cho đến nay, cũng chưa có trường hợp nào được ghi nhận là thoái vốn theo phương thức này.
DNNN phải thoái vốn, ngân hàng phải tái cơ cấu, 2 quá trình này có vẻ đang tự cản trở nhau trên đường về đích. Nên chăng, quá trình thoái vốn của DNNN tại các tổ chức tín dụng nên được lùi thời hạn. Các ngân hàng giờ cũng đã bị kiềm tỏa chặt chẽ hơn bởi những quy định và hệ thống thanh tra giám sát đủ trình độ và quyền hạn. Hệ thống đã đi vào ổn định, nếu NHNN có tiến hành sáp nhập, tái cơ cấu những ngân hàng yếu kém đi chăng nữa, thì các cổ đông là DNNN cũng sẽ hoàn toàn đồng thuận. Thậm chí, nếu NHNN có mua lại với giá 0 đồng, thì cuối cùng là tái quốc hữu hóa số vốn của doanh nghiệp ở trong đó. Nếu trường hợp sau sáp nhập, ngân hàng mới được “cải tử hoàn sinh” bởi tiềm lực mạnh hơn, hệ thống quản lý được thay đổi... thì quá trình thoái vốn sẽ trơn tru hơn rất nhiều. Khi đó, nhà đầu tư chắc chắn sẽ chờ mong được mua lại phần vốn góp của DNNN tại các tổ chức tín dụng.
Bảo Sơn