Thị trường vàng đã đi đúng mục tiêu

14:35 | 21/12/2015

1,775 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Từ năm 2011 đến nay, thị trường vàng chuyển biến tích cực theo đúng mục tiêu Quốc hội và Chính phủ đề ra. Không còn những cơn “sốt vàng” gây ảnh hưởng đến kinh tế-xã hội; quyền và lợi ích hợp pháp của người dân được bảo vệ; tình trạng “vàng hóa” trong nền kinh tế được ngăn chặn.
thi truong vang da di dung muc tieu
 

Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng (Nghị định 24) nhằm hai mục tiêu chính: Một là tổ chức, sắp xếp lại một cách căn bản thị trường vàng miếng, ngăn chặn ảnh hưởng của biến động giá vàng đến tỷ giá, lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Hai là nâng cao vai trò quản lý thị trường vàng của Nhà nước, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế; từng bước huy động nguồn lực vàng phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội.

Với sự ra đời của Nghị định 24, cơ chế quản lý hoạt động kinh doanh vàng đã có những thay đổi căn bản.

Về quyền sở hữu vàng, Nghị định 24 khẳng định rõ nguyên tắc: “Quyền sở hữu vàng hợp pháp của tổ chức, cá nhân được công nhận và bảo vệ theo quy định của pháp luật”. Đồng thời, Nghị định 24 cũng khẳng định việc quản lý hoạt động kinh doanh vàng nhằm phát triển ổn định và bền vững thị trường vàng, bảo đảm hoạt động sản xuất, gia công vàng trang sức, mỹ nghệ phục vụ cho thị trường trong nước và xuất khẩu.

Về sản xuất vàng miếng, Nghị định quy định Nhà nước thông qua NHNN độc quyền sản xuất vàng miếng, chỉ có NHNN được phép sản xuất vàng miếng, kể từ ngày 25/5/2012, không cho phép bất kỳ tổ chức, cá nhân nào được quyền sản xuất vàng miếng. Về mua bán vàng miếng, tổ chức và cá nhân chỉ được mua bán vàng miếng tại các TCTD và doanh nghiệp đủ điều kiện được NHNN cấp phép kinh doanh mua bán vàng miếng. Về xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng, Nghị định giao NHNN tổ chức xuất khẩu vàng nguyên liệu, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng.

Nghị định 24 cũng quy định rõ về việc không sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán nhằm hạn chế tình trạng “vàng hóa” nền kinh tế. Tổ chức, cá nhân muốn sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ phải thành lập doanh nghiệp và phải được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ. Tổ chức, cá nhân có nhu cầu kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ phải thành lập doanh nghiệp.

Căn cứ các quy định của Nghị định 24, NHNN đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 16/2013/QĐ-TTg ngày 04/3/2013 về việc mua, bán vàng miếng trên thị trường trong nước của NHNN. Đồng thời, NHNN đã khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai Nghị định 24 bao gồm: Thông tư 16/2012/TT-NHNN ngày 25/5/2012 hướng dẫn một số điều của Nghị định 24 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, Thông tư 06/2013/TT-NHNN ngày 12/3/2013 hướng dẫn hoạt động mua, bán vàng miếng trên thị trường trong nước của NHNN, Quyết định 563/QĐ-NHNN ngày 18/3/2013 ban hành quy trình mua, bán vàng miếng của NHNN.

Trên cơ sở khuôn khổ pháp lý mới về quản lý thị trường vàng theo Nghị định 24, một mạng lưới kinh doanh mua, bán vàng miếng bao gồm 38 TCTD và doanh nghiệp với các điểm giao dịch ở tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước đã được thiết lập, có sự quản lý chặt chẽ, tạo tiền đề phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân. Hoạt động kinh doanh mua bán vàng miếng trên thị trường diễn ra thông suốt, ổn định, quyền lợi hợp pháp của người dân được đảm bảo và bảo vệ.

Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về bình ổn thị trường vàng và trên cơ sở đánh giá tình trạng cung cầu vàng trong nước, NHNN đã ban hành văn bản pháp quy và triển khai can thiệp bình ổn thị trường vàng thông qua hình thức đấu thấu bán vàng miếng, tạo nguồn cung ra thị trường, giúp thu hẹp sự mất cân đối về cung cầu. NHNN cũng phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành trong công tác quản lý thị trường vàng, như phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ tăng cường quản lý đối với thị trường vàng trang sức, mỹ nghệ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng; phối hợp với Bộ Tài chính trong việc sửa đổi, bổ sung chính sách thuế phù hợp với định hướng quản lý; phối hợp cung cấp thông tin cho cơ quan Công an về các quy định quản lý hoạt động kinh doanh vàng phục vụ công tác phát hiện, điều tra và xử lý vi phạm của một số tổ chức có hành vi thành lập, kinh doanh vàng tài khoản, huy động vốn trái quy định của pháp luật.

Thực hiện chủ trương về chuyển quan hệ “huy động, cho vay vốn bằng vàng sang quan hệ “mua, bán vàng”, từ năm 2011 đến giữa năm 2013, NHNN đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, xây dựng lộ trình và giám sát chặt chẽ quá trình tất toán số dư huy động, giảm dần số dư cho vay vốn bằng vàng của các TCTD. Ngày 01/5/2011, toàn bộ hoạt động cho vay vốn bằng vàng đã chấm dứt và ngày 25/11/2012, hoạt động huy động vốn bằng vàng đã chấm dứt. Đến đầu tháng 7/2013, tất cả 18 TCTD đã tất toán hoàn toàn số dư huy động vốn bằng vàng, loại trừ cơ bản rủi ro về huy động và cho vay vốn bằng vàng trong hoạt động của hệ thống các TCTD. Đối với số dư cho vay, các TCTD liên tục giảm dần số dư cho vay, tính đến cuối tháng 11/2015, dư nợ cho vay vàng của toàn hệ thống đã giảm hơn 96% so với 30/4/2012.

Có thể nói, với sự quyết tâm, nỗ lực và các giải pháp đồng bộ của NHNN, trong hơn 3 năm triển khai khuôn khổ pháp lý mới về quản lý thị trường vàng, thị trường vàng đã chuyển biến tích cực theo đúng mục tiêu Quốc hội và Chính phủ đã đề ra, không còn những cơn “sốt vàng” gây ảnh hưởng đến kinh tế-xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân được bảo vệ, tình trạng “vàng hóa” trong nền kinh tế được ngăn chặn.

Từ năm 2014 đến nay, mặc dù giá vàng thế giới biến động khá phức tạp với nhiều phiên tăng/giảm mạnh nhưng thị trường vàng trong nước diễn biến ổn định, doanh số mua bán vàng miếng giảm. NHNN không phải sử dụng ngoại tệ để nhập khẩu vàng can thiệp, bình ổn thị trường; không phải cấp phép cho các doanh nghiệp nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ, do thị trường vàng trang sức, mỹ nghệ tự điều tiết. Do đó, nền kinh tế tiết kiệm được số lượng ngoại tệ lớn để nhập khẩu vàng so với giai đoạn trước đây.

 

Phương Linh

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 84,000
AVPL/SJC HCM 82,000 84,000
AVPL/SJC ĐN 82,000 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 82,650 82,900
Nguyên liệu 999 - HN 82,550 82,800
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 84,000
Cập nhật: 08/10/2024 04:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 82.700 83.600
TPHCM - SJC 82.000 84.000
Hà Nội - PNJ 82.700 83.600
Hà Nội - SJC 82.000 84.000
Đà Nẵng - PNJ 82.700 83.600
Đà Nẵng - SJC 82.000 84.000
Miền Tây - PNJ 82.700 83.600
Miền Tây - SJC 82.000 84.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 82.700 83.600
Giá vàng nữ trang - SJC 82.000 84.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 82.700
Giá vàng nữ trang - SJC 82.000 84.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 82.700
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 82.600 83.400
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 82.520 83.320
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 81.670 82.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 75.990 76.490
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 61.300 62.700
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 55.460 56.860
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 52.960 54.360
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 49.620 51.020
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 47.540 48.940
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 33.440 34.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 30.030 31.430
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 26.270 27.670
Cập nhật: 08/10/2024 04:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,190 8,360
Trang sức 99.9 8,180 8,350
NL 99.99 8,230
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 8,210
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,280 8,370
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,280 8,370
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,280 8,370
Miếng SJC Thái Bình 8,200 8,400
Miếng SJC Nghệ An 8,200 8,400
Miếng SJC Hà Nội 8,200 8,400
Cập nhật: 08/10/2024 04:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 84,000
SJC 5c 82,000 84,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 84,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 82,000 83,300
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 82,000 83,400
Nữ Trang 99.99% 81,950 83,000
Nữ Trang 99% 80,178 82,178
Nữ Trang 68% 54,096 56,596
Nữ Trang 41.7% 32,264 34,764
Cập nhật: 08/10/2024 04:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,467.24 16,633.58 17,167.80
CAD 17,835.20 18,015.36 18,593.95
CHF 28,236.47 28,521.69 29,437.72
CNY 3,451.10 3,485.96 3,597.92
DKK - 3,590.39 3,728.01
EUR 26,571.32 26,839.72 28,029.23
GBP 31,784.37 32,105.43 33,136.55
HKD 3,118.28 3,149.78 3,250.94
INR - 295.14 306.94
JPY 161.63 163.26 171.03
KRW 15.96 17.73 19.24
KWD - 81,061.30 84,304.94
MYR - 5,764.16 5,890.08
NOK - 2,283.17 2,380.19
RUB - 248.93 275.58
SAR - 6,601.08 6,865.22
SEK - 2,348.27 2,448.06
SGD 18,573.84 18,761.45 19,364.01
THB 656.65 729.61 757.58
USD 24,640.00 24,670.00 25,030.00
Cập nhật: 08/10/2024 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,640.00 24,660.00 25,000.00
EUR 26,714.00 26,821.00 27,941.00
GBP 31,976.00 32,104.00 33,096.00
HKD 3,132.00 3,145.00 3,250.00
CHF 28,403.00 28,517.00 29,413.00
JPY 163.41 164.07 171.59
AUD 16,580.00 16,647.00 17,159.00
SGD 18,701.00 18,776.00 19,330.00
THB 722.00 725.00 757.00
CAD 17,943.00 18,015.00 18,562.00
NZD 15,059.00 15,566.00
KRW 17.66 19.48
Cập nhật: 08/10/2024 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24670 24670 25030
AUD 16524 16624 17186
CAD 17931 18031 18582
CHF 28527 28557 29351
CNY 0 3503.8 0
CZK 0 1028 0
DKK 0 3644 0
EUR 26785 26885 27757
GBP 32063 32113 33215
HKD 0 3180 0
JPY 164.35 164.85 171.36
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.3 0
LAK 0 1.0501 0
MYR 0 6104 0
NOK 0 2325 0
NZD 0 15069 0
PHP 0 420 0
SEK 0 2395 0
SGD 18666 18796 19522
THB 0 686.7 0
TWD 0 768 0
XAU 8200000 8200000 8400000
XBJ 7700000 7700000 8100000
Cập nhật: 08/10/2024 04:00