Phát triển bền vững kinh tế biển đảo trong bối cảnh dịch Covid-19 và biến đổi khí hậu

20:01 | 27/11/2021

1,163 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Biến đổi khí hậu và bối cảnh đại dịch Covid-19 đã và đang diễn biến phức tạp trong thời gian qua có tác động lớn đối với việc triển khai các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế biển.

Ngày 26/11, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tổ chức hội thảo “Phát triển bền vững kinh tế biển, đảo trong bối cảnh dịch Covid-19 và biến đổi khí hậu”.

Phát triển bền vững kinh tế biển đảo trong bối cảnh dịch Covid-19 và biến đổi khí hậu
PGS, TS Phạm Quang Thao, Phó chủ tịch VUSTA phát biểu tại hội thảo

Phát biểu tại hội thảo, PGS.TS. Phạm Quang Thao - Phó Chủ tịch VUSTA cho biết, Nghị quyết 36-NQ/TW ban hành ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã được triển khai hơn 3 năm với nhiều kết quả đáng ghi nhận. Tầm nhìn và tư duy mới của Nghị quyết đã đem đến kỳ vọng cho nhiều địa phương, nhiều ngành kinh tế biển về sự phát triển lớn mạnh và bền vững. Việc thể chế hóa Nghị quyết đã được Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương triển khai thực hiện quyết liệt. Trước thách thức ngày càng lớn của biến đổi khí hậu và bối cảnh đại dịch Covid-19 đã và đang diễn biến phức tạp trong thời gian qua có tác động lớn đối với việc triển khai các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế biển nói riêng.

Tại hội thảo, các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành liên quan đến phát triển bền vững kinh tế biển ở Việt Nam đã cùng nhau tập trung thảo luận về các nội dung như: Nhìn lại 3 năm thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; xây dựng nội lực khoa học và công nghệ biển Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong bối cảnh hiện nay; phát triển điện gió ngoài khơi, chuỗi cung ứng và cảng biển ở Việt Nam: Tiềm năng phát triển, cơ hội, thách thức và giải pháp; phát triển chuỗi thủy sản trên biển ở Việt Nam trong quy hoạch tích hợp không gian biển.

Phát triển bền vững kinh tế biển đảo trong bối cảnh dịch Covid-19 và biến đổi khí hậu
PGS, TS Nguyễn Chu Hồi, Phó chủ tịch Thường trực Hội Nghề cá Việt Nam

PGS.TS Nguyễn Chu Hồi - đại biểu Quốc hội khóa XV, Phó Chủ tịch thường trực Hội Nghề cá Việt Nam; thành viên Ban chỉ đạo Diễn đàn Đại dương toàn cầu (GOF) cho biết, các kết quả đạt được đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế quốc dân, ổn định chính trị - xã hội; bảo vệ vững chắc các quyền và lợi ích biển của nước ta; góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của đất nước. Theo đó, quy mô kinh tế biển và vùng ven biển tăng lên; cơ cấu ngành nghề bước đầu thay đổi theo hướng chuyển dần từ kinh tế biển “nâu” sang “xanh”, cùng với sự chuẩn bị và thúc đẩy một số lĩnh vực/ngành nghề kinh tế mới, triển vọng. Mặc dù dịch bệnh Covid-19 nhưng biển và vùng ven biển vẫn đóng góp lớn vào xuất khẩu, thu ngoại tệ, chuỗi cung ứng được giữ vững. Kinh tế biển đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.

Trong quá trình phát triển kinh tế theo hướng mở, bước đầu đã xây dựng được một số khu kinh tế ven biển, đảo - là các trung tâm kinh tế hướng biển. Đã có bước phát triển mới ở một số đảo, vai trò “kinh tế đảo” tăng lên rõ rệt, kết cấu hạ tầng trên đảo được tăng lên rõ rệt. Công tác quốc phòng, an ninh trên biển đảo được tăng cường kể cả về đội ngũ, trang thiết bị và khả năng tác chiến; chủ quyền quốc gia được giữ vững; nhiệm vụ phát triển kinh tế biển gắn với phát triển an ninh quốc phòng, an ninh được quan tâm thực hiện….

Bên cạnh những kết quả đạt được, nhận thức vai trò, vị trí của biển và phát triển kinh tế biển bền vững của các cấp, các ngành, các địa phương ven biển và người dân vẫn chưa đầy đủ và toàn diện. Quy mô kinh tế biển còn nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý. Hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, các cơ sở quan trắc, dự báo, cảnh báo biển, thiên tai biển… ở vùng ven biển còn nhỏ bé, trang thiết bị thô sơ, “thừa chồng chéo, thiếu phối hợp” trong phát triển kinh tế biển bền vững. Tình hình khai thác, sử dụng biển và hải đảo chưa hiệu quả. Môi trường biển biến đổi theo chiều hướng xấu và tiếp tục bị “đầu độc” chủ yếu liên quan đến các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Đa dạng sinh học biển và nguồn lợi thủy sản đang giảm sút nghiêm trọng, thiếu bền vững. Đến nay, phát triển kinh tế biển ở nước ta vẫn theo cách tiếp cận mở và chủ yếu quản lý theo ngành. Vẫn thiếu các luật, chính sách cơ bản và đặc thù về biển để thực thi hiệu quả công tác quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển, đảo và kinh tế biển.

Phát triển bền vững kinh tế biển đảo trong bối cảnh dịch Covid-19 và biến đổi khí hậu

Theo TSKH Nghiêm Vũ Khải, nguyên Phó Chủ tịch VUSTA, việc quản lý đa dạng các hoạt động kinh tế biển và khai thác tài nguyên biển đòi hỏi phải nâng cao kiến thức liên quan đến đại dương một cách thận trọng và thực hiện các biện pháp phòng ngừa để bảo tồn các hệ sinh thái biển mong manh.

Khoa học và đổi mới đóng vai trò trung tâm trong việc thúc đẩy quá trình chuyển đổi từ việc sử dụng ồ ạt sang bền vững hơn. Tuy nhiên, nhìn chung, công nghệ, thiết bị nghiên cứu biển của Việt Nam có trình độ lạc hậu so với nhiều quốc gia trong khu vực có biển đảo, trong khi nguồn nhân lực biển còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Do đó, khó có được những thành tựu nghiên cứu đột phá để làm cơ sở cho quy hoạch phát triển kinh tế biển đảo theo yêu cầu của Nghị quyết 36.

Gợi ý một số chính sách trong thời gian tới, TSKH Nghiêm Vũ Khải cho rằng cần xác định rõ nguồn lực, cơ chế huy động nguồn lực, các chính sách thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước cho các công trình hạ tầng phát triển kinh tế biển. Để thực hiện các kế hoạch, cần có sự quan tâm chỉ đạo, cơ sở pháp lý và nguồn lực rất lớn, do đó Chính phủ có thể xây dựng và trình Quốc hội xem xét quyết định chủ trương đầu tư và những có chế đặc biệt đối với các dự án, công trình quan trọng quốc gia.

Tại hội thảo, các chuyên gia cũng đã thảo luận về các vấn đề: Phát triển điện gió ngoài khơi, chuỗi cung ứng và cảng biển ở Việt Nam; liên kết và tích hợp đa ngành để phát triển bền vững nuôi biển Việt Nam gồm: Ngành nuôi hải sản; ngành du lịch; ngành dầu khí; ngành cơ khí đóng tàu; ngành năng lượng; ngành kinh tế số và tự động hóa; ngành quốc phòng - an ninh; phát triển ngành nuôi thủy sản trên biển ở Việt Nam trong quy hoạch tích hợp không gian biển…

Đây là diễn đàn cho các tổ chức thành viên ở Trung ương và địa phương của VUSTA, các nhà khoa học trao đổi ý kiến về các vấn đề và giải pháp để tư vấn cho Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường và các địa phương trong việc hoạch định và triển khai các nhiệm vụ cụ thể của Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển.

N.H

Hướng tới Kinh tế biển xanh cho Việt NamHướng tới Kinh tế biển xanh cho Việt Nam
Dư địa phát triển từng lĩnh vực kinh tế biển của Việt Nam còn khá rộng mởDư địa phát triển từng lĩnh vực kinh tế biển của Việt Nam còn khá rộng mở
[PetroTimesTV] Tập đoàn Dầu khí Việt Nam góp phần phát triển kinh tế Biển[PetroTimesTV] Tập đoàn Dầu khí Việt Nam góp phần phát triển kinh tế Biển
Phát triển kinh tế biển song song với bảo vệ chủ quyền lãnh thổPhát triển kinh tế biển song song với bảo vệ chủ quyền lãnh thổ

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,700 85,200
AVPL/SJC HCM 82,700 85,200
AVPL/SJC ĐN 82,700 85,200
Nguyên liệu 9999 - HN 82,900 83,200
Nguyên liệu 999 - HN 82,800 83,100
AVPL/SJC Cần Thơ 82,700 85,200
Cập nhật: 07/12/2024 07:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 83.000 84.000
TPHCM - SJC 82.700 85.200
Hà Nội - PNJ 83.000 84.000
Hà Nội - SJC 82.700 85.200
Đà Nẵng - PNJ 83.000 84.000
Đà Nẵng - SJC 82.700 85.200
Miền Tây - PNJ 83.000 84.000
Miền Tây - SJC 82.700 85.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 83.000 84.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.700 85.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 83.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.700 85.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 83.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 82.900 83.700
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 82.820 83.620
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 81.960 82.960
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 76.270 76.770
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 61.530 62.930
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 55.670 57.070
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 53.160 54.560
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 49.810 51.210
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 47.720 49.120
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 33.570 34.970
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 30.140 31.540
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 26.370 27.770
Cập nhật: 07/12/2024 07:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,200 8,410
Trang sức 99.9 8,190 8,400
NL 99.99 8,210
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,190
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,290 8,420
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,290 8,420
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,290 8,420
Miếng SJC Thái Bình 8,270 8,520
Miếng SJC Nghệ An 8,270 8,520
Miếng SJC Hà Nội 8,270 8,520
Cập nhật: 07/12/2024 07:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 15777 16043 16681
CAD 17551 17824 18447
CHF 28252 28619 29273
CNY 0 3358 3600
EUR 26228 26486 27321
GBP 31583 31963 32915
HKD 0 3133 3335
JPY 161 166 172
KRW 0 0 19
SGD 18406 18682 19213
THB 660 723 777
USD (1,2) 25130 0 0
USD (5,10,20) 25165 0 0
USD (50,100) 25192 25225 25467
Cập nhật: 07/12/2024 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,170 25,170 25,467
USD(1-2-5) 24,163 - -
USD(10-20) 24,163 - -
GBP 31,901 31,974 32,835
HKD 3,203 3,209 3,300
CHF 28,458 28,487 29,324
JPY 164.45 164.72 172.35
THB 685.06 719.14 768.45
AUD 16,062 16,086 16,551
CAD 17,843 17,868 18,360
SGD 18,578 18,655 19,252
SEK - 2,292 2,366
LAK - 0.88 1.22
DKK - 3,531 3,646
NOK - 2,252 2,326
CNY - 3,454 3,551
RUB - - -
NZD 14,560 14,651 15,047
KRW 15.64 17.28 18.61
EUR 26,353 26,395 27,559
TWD 706.74 - 853.77
MYR 5,363.13 - 6,036.93
SAR - 6,631.75 6,968.13
KWD - 80,304 85,204
XAU - - 85,200
Cập nhật: 07/12/2024 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,185 25,187 25,467
EUR 26,284 26,390 27,490
GBP 31,717 31,844 32,810
HKD 3,192 3,205 3,309
CHF 28,296 28,410 29,280
JPY 165.01 165.67 173.01
AUD 16,024 16,088 16,581
SGD 18,592 18,667 19,189
THB 723 726 757
CAD 17,742 17,813 18,325
NZD 14,664 15,156
KRW 17.18 18.85
Cập nhật: 07/12/2024 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25313 25313 25467
AUD 15959 16059 16629
CAD 17731 17831 18386
CHF 28485 28515 29308
CNY 0 3459.3 0
CZK 0 997 0
DKK 0 3559 0
EUR 26399 26499 27374
GBP 31881 31931 33049
HKD 0 3266 0
JPY 165.58 166.08 172.63
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.124 0
MYR 0 5865 0
NOK 0 2284 0
NZD 0 14656 0
PHP 0 407 0
SEK 0 2300 0
SGD 18563 18693 19420
THB 0 689.5 0
TWD 0 777 0
XAU 8390000 8390000 8520000
XBJ 7900000 7900000 8520000
Cập nhật: 07/12/2024 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,204 25,254 25,467
USD20 25,204 25,254 25,467
USD1 25,204 25,254 25,467
AUD 16,008 16,158 17,221
EUR 26,530 26,680 27,844
CAD 17,678 17,778 19,090
SGD 18,641 18,791 19,259
JPY 166.24 167.74 172.34
GBP 31,932 32,082 32,857
XAU 8,248,000 0 8,502,000
CNY 0 0 0
THB 0 0 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 6
Cập nhật: 07/12/2024 07:00