Người tổn thương nhất mùa dịch là ai?

11:52 | 24/04/2020

245 lượt xem
|
(PetroTimes) - Do tác động nghiêm trọng của dịch Covid-19, nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh bị đình trệ dẫn đến đời sống người lao động trở nên khó khăn. Nhiều người thất nghiệp không có thu nhập nhưng trong đó, còn có những đối tượng lao động phải chịu tổn thương nhiều nhất lâm vào cảnh đói nghèo.    
nguoi ton thuong nhat mua dich la aiNgười lao động lao đao vì dịch Covid-19
nguoi ton thuong nhat mua dich la aiKinh tế số sẽ cải thiện nền kinh tế, giúp chống đỡ các cú sốc từ bên ngoài
nguoi ton thuong nhat mua dich la aiNhững lao động lay lắt trong đại dịch
nguoi ton thuong nhat mua dich la aiVCCI: Hàng triệu người sẽ mất việc làm vì dịch bệnh Covid-19

Liêu xiêu lao động phi chính thức

Người lao động được phân thành hai khu vực chính thức và phi chính thức. Trong cuộc khủng hoảng kinh tế vì dịch Covid-19, đối tượng lao động thuộc khu vực không chính thức bị tác động nặng nề hơn bởi không có lương, có công việc ổn định chính thức mà phải tự "kiếm kế sinh nhai", nếu “câu được thì có cá” không được phải chịu.

Trong thập kỷ qua, tỷ lệ việc làm phi chính thức đã và đang có xu hướng giảm đi nhưng phần đông lao động cả nước vẫn đang làm việc trong khu vực này. Lao động phi chính thức không được hưởng các chế độ phúc lợi cơ bản như khi làm một công việc chính thức, bao gồm cả chế độ bảo trợ xã hội. Nếu họ phải ngừng làm việc do suy thoái kinh tế, ốm đau hay thực hiện giãn cách xã hội, họ sẽ không được tiếp cận mạng lưới an sinh xã hội do Nhà nước chi trả.

nguoi ton thuong nhat mua dich la ai
Lao động phi chính thức thường bị thất nghiệp khi kinh tế suy thoái hoặc chịu tác động từ bên ngoài

Hàng triệu người lao động làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức ở Việt Nam không được bảo vệ sức khỏe về khía cạnh tài chính. Trong năm 2019 có 38,1 triệu người đang làm các công việc phi chính thức. Trong số đó, gần 13 triệu lao động làm việc trong các lĩnh vực phải đối diện với cú sốc kinh tế nặng nề nhất.

“Tác động trực tiếp của các biện pháp kiểm soát dịch bệnh đến khu vực phi chính thức nhiều khả năng tương đối nặng nề hơn. Trong khi đó, thông qua sản xuất phục vụ xuất khẩu và nhập khẩu, các biện pháp gián tiếp lại tác động lớn hơn tới lao động chính thức”, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) nhận định.

Lĩnh vực sản xuất của Việt Nam từ trước đến nay được phân thành các doanh nghiệp phục vụ thị trường quốc tế và các doanh nghiệp hoạt động trong nước. Nhóm thứ nhất hầu như không có liên kết kinh doanh với các nhà cung ứng phục vụ xu hướng và thị trường nội địa, họ có xu hướng áp dụng các tiêu chuẩn lao động cao hơn nên phần lớn lực lượng lao động là chính thức.

Những doanh nghiệp và người lao động làm việc trong khu vực này bị tác động nhiều hơn bởi các biện pháp kiểm soát dịch bệnh do các đối tác thương mại áp dụng. Ngược lại, lao động phi chính thức lại phải gánh chịu những tác động kinh tế của các biện pháp giãn cách xã hội. Họ là những doanh nghiệp vừa và nhỏ phục vụ thị trường nội địa cũng như hoạt động trong các lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống, thương mại bán buôn và bán lẻ, vận tải và kho bãi, như đã đề cập ở trên, cũng là các lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất do cuộc khủng hoảng.

ILO cho rằng, lao động tự làm và lao động gia đình không hưởng lương là hai đối tượng được đánh giá là dễ bị tổn thương nhất về mặt phân công công việc. Họ là đối tượng ít có khả năng nhất được phân công công việc chính thức, được tiếp cận mạng lưới an sinh xã hội trước các cú sốc kinh tế và ít có khả năng có các khoản tiết kiệm. Mặc dù không phải là tất cả nhưng họ là lực lượng chiếm phần đông những người đang làm các công việc phi chính thức ở Việt Nam.

Họ cũng có nguy cơ cao nhất sẽ rơi vào tình trạng nghèo đói. Tình trạng có việc làm nhưng vẫn nghèo, tỷ lệ dân số có việc làm dưới chuẩn nghèo quốc tế là 1,9 USD, đã và đang có xu hướng giảm mạnh trong nhiều năm và ở mức 1,2% năm 2019. Tuy nhiên, các biện pháp giãn cách xã hội để ứng phó đại dịch Covid-19 có thể làm mất đi nhiều lựa chọn thu nhập của những người cận nghèo như công nhân tái chế rác thải và người bán hàng rong.

Việc làm dễ bị tổn thương phổ biến lại trong các lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất với tổng số gần 9 triệu người. Lao động gia đình không hưởng lương đặc biệt thiệt thòi do họ không được trả lương. Việc khoảng 2 triệu lao động gia đình đang làm việc trong những lĩnh vực có nguy cơ cao nhất cho thấy công việc kinh doanh gia đình cung cấp một phần sinh kế quan trọng trong các ngành này. Trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng hiện nay, điều đó có nghĩa là cả gia đình đều phải chứng kiến sự sụt giảm trong các dòng doanh thu của gia đình.

Tuy nhiên, có được một công việc được trả lương cũng không đảm bảo việc được tiếp cận bảo trợ xã hội. Người lao động thuộc nhóm tình trạng việc làm này nhìn chung thường được bảo đảm an ninh thu nhập và có điều kiện làm việc tốt hơn. Ở Việt Nam, do công cuộc chuyển đổi kinh tế và mở rộng lĩnh vực sản xuất, nhóm này đã tăng hơn gấp đôi kể từ đầu những năm 2000 và tính đến năm 2019, nhóm này chiếm 47,3% tổng số việc làm.

Tuy nhiên, ở Việt Nam, có một công việc được trả lương không đồng nghĩa với việc đương nhiên được đóng bảo hiểm xã hội. Năm 2019, chỉ riêng trong lĩnh vực sản xuất đã có hơn 2 triệu lao động phi chính thức.

Lao động nữ lao đao

Phụ nữ chiếm số đông trong các lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất của Việt Nam. Hơn nữa, lực lượng lao động của các lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất là phụ nữ và chiếm phần đa trên tổng số việc làm của tất cả các lĩnh vực đó. Trong 5 lĩnh vực này, chúng ta thấy phụ nữ chiếm tỷ lệ đặc biệt cao trong các phân ngành ghi nhận sự sụt giảm về sản lượng.

nguoi ton thuong nhat mua dich la ai
Lao động nữ tổn thương nhất khi dịch bệnh xảy ra

Chẳng hạn như lĩnh vực thương mại bán lẻ mà phụ nữ chiếm gần 64% tổng số lao động và ngành dệt may với hơn 77% lực lượng lao động là nữ. Ngay cả trước khi xảy ra khủng hoảng Covid-19, nhiều phụ nữ là lao động gia đình không được trả lương hơn so với nam giới, và tồn tại chênh lệch tiền lương theo giới. Cú sốc kinh tế hiện tại sẽ làm trầm trọng thêm những thách thức này. Bên cạnh đó, tác động của khủng hoảng kinh tế đối với phụ nữ sẽ đi kèm với những chuẩn tắc xã hội đặc trưng của Việt Nam, cho rằng phụ nữ có thiên chức chăm sóc gia đình trong khi vẫn kỳ vọng họ cũng tích cực trên thị trường lao động gần như nam giới.

Trong năm 2019, phụ nữ có việc làm đã dành trung bình 38,8 giờ mỗi tuần cho công việc (ít hơn nam giới 1,2 giờ), cộng thêm 23,5 giờ mỗi tuần để làm việc nhà (nhiều hơn nam giới 12,7 giờ). Khi trường học vẫn đóng cửa từ đầu tháng 2 và các biện pháp giãn cách xã hội đang được áp dụng, trách nhiệm chăm sóc con cái chủ yếu là do phụ nữ gánh vác, điều này có thể khiến họ phải đưa ra những quyết định về việc làm của mình và có lẽ sẽ làm giảm hơn nữa thu nhập của họ.

Với sự tác động của dịch bệnh, theo ILO ước tính đến cuối quý II, khủng hoảng có thể ảnh hưởng đến sinh kế của 4,6 đến 10,3 triệu lao động, do giảm số giờ làm, giảm lương, hoặc trong trường hợp xấu nhất là mất việc. Lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng do họ không được tiếp cận các mạng lưới bảo trợ xã hội do Nhà nước chi trả.

Họ có nguy cơ phải đối diện rủi ro về kinh tế do chủ yếu làm các công việc với mức lương thấp và nhiều khả năng họ không có tiền tiết kiệm. Phụ nữ chiếm số đông trong hầu hết các lĩnh vực phải chứng kiến sự sụt giảm mạnh của các hoạt động kinh tế.

Việt Nam đã giải quyết cuộc khủng hoảng y tế liên quan đến Covid-19 một cách quyết liệt và mạnh mẽ, và quan trọng nhất là với mục tiêu bảo vệ tất cả mọi người dân, không để ai bị bỏ lại phía sau. Cách tiếp cận đó theo ILO cần phải được áp dụng để giải quyết các thách thức về kinh tế, xã hội và thị trường lao động. Đây là thời điểm quan trọng phải đảm bảo rằng phản ứng chính sách kinh tế - xã hội được xây dựng một cách bao trùm, dựa trên tham vấn ba bên (Chính phủ, người sử dụng lao động và người lao động), và có thể tác động tới các đối tượng dễ bị tổn thương nhất trên thị trường lao động.

Thời điểm khó khăn này tạo cơ hội cho Việt Nam thiết lập nền tảng cho con đường tăng trưởng toàn diện hơn, không để ai bị bỏ lại phía sau, khi công cuộc hồi phục bắt đầu được thực hiện.

Nguyễn Anh

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 144,800 ▲2300K 147,800 ▲2300K
Hà Nội - PNJ 144,800 ▲2300K 147,800 ▲2300K
Đà Nẵng - PNJ 144,800 ▲2300K 147,800 ▲2300K
Miền Tây - PNJ 144,800 ▲2300K 147,800 ▲2300K
Tây Nguyên - PNJ 144,800 ▲2300K 147,800 ▲2300K
Đông Nam Bộ - PNJ 144,800 ▲2300K 147,800 ▲2300K
Cập nhật: 15/10/2025 19:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 14,540 ▲310K 14,790 ▲190K
Trang sức 99.9 14,530 ▲310K 14,780 ▲190K
NL 99.99 14,540 ▲310K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,540 ▲310K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,600 ▲220K 14,800 ▲190K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,600 ▲220K 14,800 ▲190K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,600 ▲220K 14,800 ▲190K
Miếng SJC Thái Bình 14,600 ▲190K 14,800 ▲190K
Miếng SJC Nghệ An 14,600 ▲190K 14,800 ▲190K
Miếng SJC Hà Nội 14,600 ▲190K 14,800 ▲190K
Cập nhật: 15/10/2025 19:45
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 146 ▼1295K 14,802 ▲190K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 146 ▼1295K 14,803 ▲190K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,442 ▲19K 1,464 ▲19K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,442 ▲19K 1,465 ▲19K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,419 ▲1279K 1,449 ▲1306K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 138,965 ▲1881K 143,465 ▲1881K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 101,336 ▲1425K 108,836 ▲1425K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 91,192 ▲90293K 98,692 ▲97718K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 81,048 ▲1159K 88,548 ▲1159K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 77,135 ▲1108K 84,635 ▲1108K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 53,079 ▲792K 60,579 ▲792K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Cập nhật: 15/10/2025 19:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16652 16921 17493
CAD 18233 18509 19123
CHF 32269 32652 33284
CNY 0 3470 3830
EUR 30006 30279 31302
GBP 34352 34744 35683
HKD 0 3257 3459
JPY 167 171 177
KRW 0 17 19
NZD 0 14780 15366
SGD 19791 20073 20587
THB 725 788 841
USD (1,2) 26077 0 0
USD (5,10,20) 26118 0 0
USD (50,100) 26146 26181 26369
Cập nhật: 15/10/2025 19:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,166 26,166 26,369
USD(1-2-5) 25,120 - -
USD(10-20) 25,120 - -
EUR 30,254 30,278 31,407
JPY 171.14 171.45 178.52
GBP 34,780 34,874 35,670
AUD 16,925 16,986 17,415
CAD 18,479 18,538 19,051
CHF 32,656 32,758 33,414
SGD 19,968 20,030 20,636
CNY - 3,652 3,746
HKD 3,338 3,348 3,428
KRW 17.17 17.91 19.22
THB 776.28 785.87 835.42
NZD 14,806 14,943 15,280
SEK - 2,737 2,815
DKK - 4,047 4,161
NOK - 2,568 2,640
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,844.75 - 6,552.97
TWD 781.2 - 939.35
SAR - 6,928.45 7,247.93
KWD - 83,867 88,598
Cập nhật: 15/10/2025 19:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,185 26,189 26,369
EUR 30,013 30,134 31,216
GBP 34,518 34,657 35,592
HKD 3,324 3,337 3,440
CHF 32,326 32,456 33,332
JPY 170.25 170.93 177.77
AUD 16,800 16,867 17,383
SGD 19,976 20,056 20,566
THB 788 791 825
CAD 18,449 18,523 19,004
NZD 14,827 15,304
KRW 17.72 19.37
Cập nhật: 15/10/2025 19:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26150 26150 26369
AUD 16818 16918 17529
CAD 18407 18507 19111
CHF 32504 32534 33409
CNY 0 3660.9 0
CZK 0 1220 0
DKK 0 4130 0
EUR 30178 30208 31231
GBP 34651 34701 35822
HKD 0 3390 0
JPY 170.41 170.91 177.95
KHR 0 6.097 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 1.148 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2645 0
NZD 0 14882 0
PHP 0 425 0
SEK 0 2805 0
SGD 19943 20073 20794
THB 0 753.5 0
TWD 0 860 0
SJC 9999 14600000 14600000 14800000
SBJ 14000000 14000000 14800000
Cập nhật: 15/10/2025 19:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,176 26,226 26,369
USD20 26,176 26,226 26,369
USD1 26,176 26,226 26,369
AUD 16,870 16,970 18,078
EUR 30,359 30,359 31,671
CAD 18,360 18,460 19,772
SGD 20,033 20,183 21,190
JPY 171.13 172.63 177.23
GBP 34,780 34,930 35,701
XAU 14,598,000 0 14,802,000
CNY 0 3,458 0
THB 0 792 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 15/10/2025 19:45